Có những giây phút cuộc đời mình bỗng lóe lên một niềm hi vọng lớn lao
và một nỗi khát khao tựu thành những điều mình từng cưu
mang trong tâm tưởng. Tôi đã trải qua những giây phút như thế!
Từ giữa năm 2001, mỗi sáng tôi thường mở máy vi tính và vào mạng
internet để đọc báo. Như thường lệ, sáng ngày 17/02/2005, tôi vào trang web của báo điện tử Vietnamnet, việc đầu tiên tôi tìm kiếm thông tin ở
mục mà mình có nhiều sự quan tâm là giáo dục.
Hôm đó, tiêu đề Học bổng quốc tế 40.000
USD cho học sinh lớp 11 đã làm tôi vô cùng ngạc nhiên và thích thú. Nội
dung bài viết hiện rõ như sau:
Năm nay là năm thứ tư Chương trình học bổng các trường Thế giới Liên
kết hoạt động trở lại tại Việt Nam. Đây là chương trình học bổng toàn phần hai
năm trị giá hơn 40.000 USD để lấy bằng Tú tài Quốc tế tại một số trường trong
tổng số 10 trường Thế giới Liên kết trên khắp thế giới.
Trong ba năm qua, tổng cộng đã có năm nữ sinh và một nam sinh từ cả ba
miền Bắc - Trung - Nam đã được gửi sang học tập tại Trường Lester Pearson
ở Canada, Trường Adriatic ở Italia, Trường Mahindra ở Ấn Độ.
Năm nay, Trường Pearson ở Canada, Trường Li Po Chun ở
Hồng Kông, Trường Adriatic ở Italia và Trường Mahindra ở Ấn Độ dành BỐN suất
học bổng toàn phần cho các học sinh lớp 11 có kết quả học tập suất sắc và có
niềm yêu thích đặc biệt và cam kết vào các công việc của cộng đồng.
Một ủy ban Quốc gia điều hành chương
trình này đã được thành lập vào năm ngoái dưới sự điều phối của ông David
Baird, Trường Quốc tế Liên Hợp Quốc tại Hà Nội. Năm nay ủy ban sẽ phối hợp chặt
chẽ với Trường Quốc tế Liên Hợp Quốc tại Hà Nội. Ủy ban này sẽ chịu trách nhiệm
truyển chọn thí sinh và gây quỹ để trang trải các chi phí có liên quan đến
chương trình này hoặc để tạo ra nhiều học bổng hơn cho các sinh viên Việt Nam.
Hạn chót để nộp hồ sơ là ngày 18-3-2005. Ban tuyển chọn Học bổng các
Trường Thế giới Liên kết, địa chỉ liên hệ: Trường Quốc tế Liên Hợp Quốc Hà
Nội GPO Box 313, Hà Nội, Việt Nam.
Để biết thêm thông tin và nhận bản đăng ký tham gia chương trình học
bổng, xin liên hệ qua email với ông David Baird theo địa chỉ email:
dbaird@unishanoi.org hoặc cô Vũ Thị Hải
Anh, Đại sứ quán Canada tại Hà Nội, theo địa chỉ email:
haianh.vuthi@international.gc.ca.
Tôi tiếp tục đọc đi đọc lại bài báo trên nhiều lần và nhận
ra rằng đây là một chuyện ngẫu nhiên nhưng hình như có một sự trùng hợp lạ lùng.
Trong giai đoạn này, ngày đêm tôi luôn nghĩ đến việc kiếm học bổng cho con du
học. Như linh cảm được thời tiết nhân duyên đã đến và cánh cửa du học đã mở ra
đối với con trai mình, tâm trí tôi vang vọng lời dạy bảo của Chúa Jesus:
“Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa sẽ mở.”.
Tháng 09/1999, bước vào năm học lớp 6, con tôi bắt đầu tham dự một một
khóa học cơ bản về vi tính tại nhà trường. Qua năm học lớp 7, cháu xin
tôi được tham dự một khoá học về ngôn ngữ lập trình Pascal trên máy vi
tính. Thực tình, lúc đó vì lo rằng con tôi sẽ chểnh mảng các môn học
khác - nhất là tiếng Anh, nên tôi không muốn cho cháu tốn thời gian vào
lớp tin học nâng cao này. Thời ấy, phong trào học tiếng Anh để du học
chưa rầm rộ như bây giờ, nhưng biết đây chính là chiếc chìa khóa mở ra
cánh cửa du học, nên tôi đã có sự quan tâm đặc biệt. Tôi chưa bao giờ ép
buộc con tôi phải học tập nhiều, nhưng đối với môn tiếng Anh là một
ngoại lệ.
Vì quá say mê với môn học mới lạ và đầy hấp dẫn, con tôi
đã năn nỉ tôi nhiều lần để được tiếp tục với
tin học và hứa rằng sẽ không vì chuyện này mà lơ là việc học. Cuối cùng, tôi
đành phải để cháu được toại nguyện, lúc ấy cháu vô cùng vui mừng và sung sướng.
Được một thầy giáo dạy tin học của nhà trường - cũng là người bạn thời trung học của tôi - phát hiện năng khiếu, nhờ thầy đã khuyến khích và hướng dẫn tận
tình nên con tôi ngày càng tiến bộ. Người bạn này luôn động viên tôi
mua máy vi tính để con tôi có nhiều cơ hội thực hành tại nhà hơn. Vào thời điểm
bấy giờ, máy vi tính để bàn còn rất đắt, nó là một vật quý giá đối với học sinh
đang học ở bậc trung học cơ sở.
Sau khi đã suy nghĩ kĩ, vào tháng 10/2000,
tôi đã mua cho con tôi một bộ máy vi tính với
trị giá gần hai lượng vàng. Khi bắt đầu có máy
tính,
thay vì giải trí với những trò chơi khác trên
máy, hằng
ngày con tôi đã giải trí với môn lập trình Pascal. Nhờ ở vào một hoàn cảnh
thuận lợi như vậy nên khả năng giải toán trên máy tính của con tôi đã tiến bộ
rõ rệt. Với một niềm đam mê lạ lùng, trong một
thời gian rất ngắn con tôi trở thành “tín đồ” của máy tính. Trong quãng thời
gian đó, tôi và cháu thường xuyên đến các tiệm sách để tìm kiếm những cuốn sách
quý hiếm và đắt tiền. Với một khả năng năng tự học hiếm có, con tôi đã tự tìm
hiểu kiến thức về tin học trong những cuốn sách dày
cộp, những cuốn
sách này
thường chỉ dành riêng cho sinh viên và thầy
giáo dạy môn này ở bậc trung học. Những thuật ngữ lạ
lẫm, những thuật toán hấp dẫn trong tin học được con tôi tiêu hóa và đem ra
thực hành một cách hứng thú.
Ngoài ngôn ngữ Pascal, con tôi cũng làm quen với vài ngôn ngữ lập trình
khác để tập tò viết phần mềm ứng dụng. Vào tháng 05/2001, tình cờ được biết báo
Lao Động kết hợp với công ty FPT và Đài Truyền Hình VTV3 phát động cuộc thi “Trí Tuệ Việt Nam 2001”, vì muốn thử sức nên con
tôi đã tham gia chương trình này. Trong gần ba tháng hè, con tôi đã viết thành
công phần mềm “Từ Điển Danh Nhân Văn Học Việt Nam” và gửi dự thi. Trong độ tuổi
mà sự hiểu biết trong lĩnh vực văn học
còn hạn hẹp, con tôi chỉ hoàn thiện phần kĩ thuật, phần nội dung thì tôi
phải tham gia để giúp cháu.
Vì còn nhỏ và là một người viết phần mềm nghiệp dư nên so
với những phần mềm chuyên nghiệp khác thì phần mềm của con tôi không có điểm
mạnh nào để địch nổi. Nhưng con tôi là một thí sinh nhỏ tuổi nhất trong cuộc thi nên con tôi
đã thu hút sự quan tâm của báo chí. Thực ra, đây là chuyện bình thường, bởi báo
chí luôn khai thác những đề tài gây sự chú ý với độc giả. Thông thường, những
câu chuyện như thế này hay được báo chí đưa tin chính xác và vô tư nhưng nhiều
khi cũng cường điệu vấn đề lên một chút. Bởi vậy, những ai làm cha làm mẹ phải hết
sức cẩn trọng với những bài viết như thế. Những bài báo này là con dao hai
lưỡi, nếu những bậc cha mẹ không biết cách sử dụng thì nó sẽ gây ra “nguy hại”
cho con em mình về sau. Nhiều khi con em mình chỉ có chút năng khiếu về một mặt
nào đó nhưng nhiều phụ huynh mang ảo tưởng rằng con em mình là bậc thần đồng
xuất chúng. Cũng vì lí do này, có thể nhiều phụ huynh cứ chạy theo những danh
tiếng hão huyền mà quên đi điều gì là cơ bản và quan trọng cho cuộc sống sau
này của đứa bé. Vô tình, nhiều người đã làm hư con em của họ vì đã để cho đứa trẻ thỏa mãn với những gì nó đang có.
Kì nghỉ hè gần xong, theo sự định hướng của gia đình, con tôi cũng chấm
dứt luôn việc chơi với phần mềm, mà chỉ dành thời gian
cho việc học tập. Tuy thuộc loại thông minh nhưng vì còn nhỏ nên con tôi chưa
siêng năng lắm trong việc học tập, bởi vậy nhiều lúc cháu chưa đạt được những kết quả như mong đợi. Quan điểm của vợ chồng
tôi là không gây áp lực về điểm số và thành tích trong các kì thi học sinh giỏi
nên không ép buộc con cái phải học hành
quá sức. Nếu bắt học quá sức, đứa trẻ sẽ hao
mòn tinh thần, sức lực và mất đi tuổi thơ ngây, đến khi lên học ở những lớp
trên thì nhiều khi nó có thể chán nản và không còn hứng thú gì đến việc học tập.
Có vài em học sinh cùng lứa với con tôi, khi học tiểu học hoặc những
năm đầu của bậc trung học cơ sở thì giỏi hơn con tôi, nhưng càng về sau
thì càng đuối sức. Lúc con tôi bắt đầu đã say mê với toán học, cháu đã
tâm sự với tôi rằng: “Nếu lúc trước mà ba bắt buộc con giải toán
nhiều quá, giống như thằng bạn của con từng bị ba nó làm như vậy, thì
ngày bây giờ con không thể có niềm đam mê với môn toán.”. Trong kì
về nhà nghỉ hè năm 2011, để chuẩn bị sang Đại học Chicago làm nghiên
cứu sinh tiến sĩ toán học, con tôi lại tâm sự với tôi rằng: “Nhờ say mê lập trình Pascal mà con đã phát triển được tư duy logic của toán học và say mê học toán từ dạo ấy.”.
Đây là chút kinh nghiệm về việc dạy con mà tôi có thể chia sẻ cho các
bậc phụ huynh đang có con em theo học ở bậc tiểu học hoặc trung học cơ sở.
Tôi nghĩ rằng, kì thi “Trí tuệ Việt
Nam 2001”
cũng có lợi ích là đã khích lệ được tinh
thần của con tôi. Qua những bài viết của các tờ báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Khoa học và Đời sống… dành cho cháu, tôi đã khai thác
được khía cạnh tích cực của nó. Dựa vào đó, tôi bảo với con tôi rằng, nếu năm
học lớp 8 này mà con không chịu nỗ lực thì tự mình sẽ cảm thấy xấu hổ vì đã làm
phụ lòng mong đợi của nhiều người. May mắn thay, con tôi là một đứa trẻ biết tự
trọng, bởi vậy khi bước vào năm học mới, cháu đã nỗ lực hết mình. Tuy năm học này, con tôi đang học lớp 8 nhưng cháu đã được thầy cô cho tham dự kì thi Học sinh Giỏi
Tin học cấp Tỉnh dành cho học sinh lớp 9. Kết
quả là
cháu đạt được Giải Nhất.
Bước sang năm học lớp 9, con tôi bắt đầu có niềm đam mê với toán học, một môn học mà trước đây cháu chưa say mê cho lắm. Năm học này
con tôi đã có một sự chuyển biến rõ rệt, cháu đã nỗ
lực vượt bực và lúc nào cũng cảm thấy không đủ thời gian dành cho chuyện học. Lúc
ấy, việc giải được những bài toán khó đối với cháu là niềm sung sướng và hạnh phúc. Nhờ vào ý
thức học tập không ngừng, con tôi đã có được kết quả học tập xuất sắc và đạt
được nhiều thành tích cao đã trong các kì thi Tin học, Toán học và Vật lí. Kết
thúc năm học lớp 9, con tôi được nhà trường bình chọn là học sinh xuất sắc toàn trường và được nhận Giải thưởng Danh
dự toàn trường.
Từ khi phát hiện năng khiếu về ngoại ngữ và tin học của con, tôi bắt đầu
nuôi ước mơ sẽ kiếm cách đưa con đến những chân trời xa xôi, rộng mở
hơn. Vì thế, tôi đã bỏ nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu nhiều về
giáo dục và thông tin du học qua sách báo. Tôi luôn luôn gieo cho con
tôi ý nghĩ là cháu sẽ kiếm được học bổng để du học trong một tương lai
không xa. Tôi thường đem chuyện này ra bàn bạc trong những bữa cơm, tuy vợ tôi
cũng đặt rất nhiều niềm tin ở con mình nhưng đôi lúc lại bảo rằng điều
ấy quá cao xa và thiếu thực tế. Tôi không tranh luận nhưng vẫn âm thầm
lên kế hoạch và luôn luôn tìm kiếm.
Qua nhiều nguồn thông tin, tôi được
biết mỗi năm chính phủ Singapore dành khoảng 20 suất học bổng ASEAN cho học
sinh đang học lớp 9 hoặc lớp 10 của Việt Nam. Đây là loại học bổng toàn phần,
kéo dài bốn năm trung học. Sau bốn năm học tại một trường trung học hàng đầu
của Singapore, học sinh sẽ lấy bằng Tú tài Anh (A-Level). Khi có được bằng cấp
này, học sinh có thể nộp đơn xin học tiếp đại học ở Mỹ, Anh hoặc Singapore. Tuy
học bổng này không ràng buộc người nhận như học bổng ASEAN dành cho bậc đại
học, nhưng nó cũng nằm trong kế hoạch thu hút nhân tài về cho Singapore. Một thời gian sau, qua một bài viết của giáo sư Võ Tòng Xuân,
tôi lại biết rõ hơn về kết quả học tập của các học sinh Việt Nam đã du học bằng
học bổng ASEAN. Giáo sư cho biết nhiều em trong lứa học sinh đầu tiên qua Singapore,
sau khi học xong chương trình A-Level, đã được các đại học danh tiếng nhất của
Hoa Kỳ cấp học bổng để học tiếp và đã có những thành quả tốt đẹp.
Để tham gia kì thi học bổng ASEAN, trước tiên thí sinh
phải có được bộ đơn của Bộ Giáo dục.
Hằng năm,
Sở Giáo dục ở các tỉnh nhận được hai bộ đơn từ Bộ Giáo dục và chọn ra hai học
sinh để dự thi. Học sinh đã được nhận đơn hoàn thành bộ đơn để nộp về Bộ Giáo dục và sau đó được gọi đi Hà Nội hoặc Sài Gòn để dự thi. Tôi đã tìm hiểu về
học bổng ASEAN khi con tôi đang học lớp 7, nhưng khi hỏi những người có trách
nhiệm thì tôi chỉ nhận được câu trả lời là không biết. Vì lí do trên, tôi không
còn hi vọng gì trong việc tìm kiếm học bổng ở bậc trung học cho con tôi. Về sau
tôi mới hiểu rằng, dù cho con tôi là một học
sinh giỏi,
đạt được nhiều thành tích cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp Tỉnh và từng
được nhận Giải thưởng Danh dự tại một trường trung học cơ sở đứng đầu tỉnh nhà,
nhưng sẽ không bao giờ nhận được bộ đơn quý giá này.
Lúc con tôi tham gia cuộc thi Trí Tuệ Việt Nam 2001, để tiện liên lạc với ban tổ chức cuộc thi, máy tính
nhà tôi được nối mạng internet. Có thể nói rằng, gia đình tôi là một trong
những gia đình đầu tiên ở cái thị xã Tam Kỳ nhỏ bé này dùng internet. Thời đó,
bưu điện chưa cung cấp dịch vụ đường truyền băng thông rộng và tốc độ truy cập
internet nhanh ADSL như bây giờ nên tôi phải dùng loại internet quay số
VNN1260. Loại internet này rất chậm và hay trục trặc nên mỗi lần vào được
website thì tốn nhiều thời gian, do vậy tôi rất nóng ruột khi vào mạng để tìm
kiếm thông tin. Mỗi lần thanh toán hóa đơn
điện thoại tôi thấy thật tiếc tiền, bởi tôi phải trả khá nhiều tiền cho dịch vụ
này - khoảng nửa chỉ vàng mỗi tháng. Cước phí được tính từng phút nên ngày ấy
internet là thứ vô cùng xa xỉ. Tuy tiết kiệm mọi thứ, nhưng đối với những nhu
cầu cần thiết như sách vở và internet thì tôi lại tỏ ra hào phóng. Bây giờ nghĩ
lại, nếu lúc ấy tôi coi trọng đồng tiền, không chịu mua máy vi tính cho con và
không nối mạng internet thì có thể tư duy toán học của cháu chưa phát triển
kịp thời, và tôi cũng bỏ mất cơ hội tìm
được học bổng cho con.
Trở lại với chuyện phát hiện thông tin về học bổng như đã nói ở đầu bài
viết. Thời gian từ khi biết được thông tin học bổng Tú tài Quốc tế đến khi kết
thúc thời hạn nộp đơn chỉ trong vòng một tháng, vì thế tôi phải nhanh chóng liên lạc với ban tuyển chọn học
bổng để biết thêm thông tin và xin bộ đơn qua mạng. Sau khi nhận được bộ đơn,
tôi và cháu đã gấp rút hoàn thành các yêu cầu của bộ đơn. Giai đoạn này con tôi đang học lớp 11
chuyên Toán tại trường THPT Chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quảng Nam. Một số yêu cầu
của ban tuyển chọn được ghi rõ trong bộ đơn đã được các thầy cô giáo trong nhà
trường tận tình giúp đỡ. Ngày 03/03/2005 bộ hồ sơ được hoàn thành, tôi gửi ngay ra Hà Nội bằng dịch
vụ chuyển phát nhanh. Đến ngày 11/03/2005,
tôi nhận được phản hồi của bưu điện là hồ sơ đã được giao cho người nhận. Thế
là gia đình tôi yên tâm và chờ đợi!
Khi điền đơn xin xét tuyển, con tôi đã chọn nguyện vọng học các trường theo thứ tự như sau: 1. Canada, 2. Italia, 3. Hồng Kông, 4. Ấn Độ.
Với những thành tích cao trong học tập, với khả năng nghe nói tiếng Anh khá
trôi chảy và cộng thêm khá nhiều hoạt động ngoại khóa, tôi hi vọng con tôi có thể kiếm được học bổng này. Tuy vậy, tôi không dám mơ ước cháu sẽ được ban tuyển chọn tiến cử đến Trường Lester B. Pearson, Canada để học tập. Em nào nộp đơn cũng chọn
trường
này làm nguyện vọng số một, vì thế sẽ có sự cạnh tranh ác
liệt. Con tôi là một học sinh trường chuyên ở một tỉnh lẻ, cháu chỉ tự học nghe nói tiếng Anh trên máy vi tính nên có thể bị hạn chế. Về mặt
này, tôi lo rằng con tôi không thể bằng các học sinh tại các trường chuyên nổi tiếng tại Sài Gòn
và Hà Nội, bởi vậy tôi chỉ dám mơ ước con
tôi sẽ được đến Hồng Kông hoặc Ấn Độ mà thôi. Tuy các Trường Thế giới Liên kết (United World
Colleges - UWC) đều có chất lượng đào tạo ngang nhau nhưng hầu hết học sinh đều muốn đến một nước tiên tiến để học tập.
Trong khi chờ đợi, con tôi đã lần lượt tham gia kì thi Học sinh Giỏi
môn Toán cấp Quốc gia dành cho học sinh lớp 12 và kì thi Olympic 30/4 dành cho
học sinh đang học lớp 11. Trong lúc đang chuẩn bị thi Olympic 30/4 tại thành
phố Hồ Chí Minh, con tôi được nhà trường báo cho biết là cháu đã đạt được Giải
Nhì Toán Quốc gia trong kì thi trước đó. Hai ngày sau, con tôi tiếp tục đạt Huy chương Vàng Toán học Trong
kì thi Olympic 30/4 này. Trong những năm đó, những học sinh đạt từ Giải Ba cấp
Quốc gia trở lên sẽ được tuyển thẳng vào đại học mà không cần qua kì thi tuyển
sinh đại học. Khi biết tin con tôi được Giải Nhì Toán Quốc gia, vợ chồng tôi vô
cùng vui sướng, bởi vì con tôi sẽ không bị áp lực của kì thi đại học mà sẽ dành
toàn công sức cho việc học tiếng Anh để dự thi vào Đại học Quốc gia Singapore
(NUS) và Đại học Công nghệ Nangyang (NTU) của Singapore trong năm học lớp 12
sắp đến.
Với những những kết quả xuất sắc như
trên, tôi
đã nhanh chóng bổ sung thông tin quý giá của
cháu với ban tuyển chọn. Niềm hi vọng từng được
lóe sáng, bấy giờ lại ngùn ngụt cháy trong tôi. Đúng theo dự đoán của gia đình, chiều ngày 27/04/2005, ban tuyển chọn thông báo qua
điện thoại cho con tôi là sau khi xét duyệt tất cả hồ sơ đã nộp, cháu nằm trong số mười một em được vào vòng phỏng vấn. Ban tuyển
chọn còn cho con tôi biết là họ đã gửi thông tin về
ngày giờ và địa điểm phỏng vấn vào địa chỉ email của cháu.
Sau khi biết được thông tin, tôi
liền mua vé máy bay khứ hồi Đà Nẵng - Hà Nội cho hai cha con. Trưa ngày 05/05/2005, cha con tôi đi Đà Nẵng và đáp máy bay ra Hà Nội. Để thuận tiện cho cuộc phỏng vấn vào sáng ngày
07/05/2005, vừa đến nơi, tôi liền tìm một khách sạn gần địa điểm phỏng vấn và thuê ngay phòng
ở. Nhằm tránh những trở ngại không lường trước
do việc
đi lại và ăn uống gây ra, từ lúc đến nơi cho tới khi đi phỏng vấn, con tôi không ra khỏi phòng. Vì quá cẩn thận, trong khoảng thời gian ấy, hai cha con tôi chỉ ăn bánh mặn với phô mai và uống sữa tươi đã đem theo. Tôi chỉ đi ra ngoài hai lần,
một lần đi bộ đến nơi phỏng vấn để biết
trước đường đi nước bước, một lần đi bằng xe
ôm xuống phố chính để mua sách luyện thi đại học bằng tiếng Anh. Mục đích của việc mua sách là nhằm dự phòng, nếu cháu không kiếm được học bổng trong lần này thì sang năm cháu
sẽ thi vào vào NUS và NTU của Singapore.
Sáng ngày 07/05/2005, tôi và cháu đi bộ
đến địa điểm phỏng vấn. Trong khi ngồi chờ ban tuyển chọn gọi cháu vào phỏng
vấn, tôi có trao đổi sơ qua với các phụ huynh và học sinh khác. Qua trò chuyện,
tôi thấy con tôi đạt được nhiều thành tích học tập hơn các em khác nên lại càng
hi vọng và tin tưởng hơn. Đến lượt con tôi vào phỏng vấn, tôi ngồi ở bên ngoài và rất hồi hộp.
Khoảng vài mươi phút sau, tôi nghe tiếng cười ồ lên của hội đồng phỏng vấn. Sau
khi trải qua cuộc phỏng vấn bằng tiếng Anh kéo dài khoảng 45 phút, con tôi trở ra với vẻ mặt tươi cười rạng rỡ. Lúc ấy, tôi nghĩ rằng có lẽ học
bổng đang ở trong tầm tay của cháu.
Sau này, tôi hỏi con tôi vì sao có những tiếng
cười lớn trong lúc đang phỏng vấn. Con tôi bảo rằng,
ban tuyển chọn đã hỏi con tôi có đi chơi đâu ở thủ
đô Hà Nội không. Cháu thực thà trả lời, vì
lo lắng cho cuộc phỏng vấn sắp đến nên chẳng dám đi chơi đâu cả. Khi trả lời
xong, cả sáu người trong hội đồng đều cười lên thành tiếng. Trước
khi cuộc phỏng vấn kết thúc, hội đồng cho thí sinh
đặt một câu hỏi. Con tôi đã hỏi hội đồng
phỏng vấn là bao giờ sẽ có kết quả. Ban tuyển chọn bảo là vào thứ hai tuần đến (ngày 09/05/2005) sẽ có kết quả chính thức. Chiều hôm đó, cha
con tôi bay về lại Đà Nẵng để cháu còn tiếp tục đến trường. Địa điểm phỏng vấn
nằm ở vùng ven thành phố nên tuy mang tiếng là đi Hà Nội nhưng con
tôi chẳng biết gì về Hà Nội cả.
Với hi vọng tràn đầy, gia đình tôi chờ đợi kết quả học bổng. Trưa hôm
sau (ngày chủ nhật - 08/05/2005), tiếng chuông điện thoại bàn reo lên, tôi cầm ngay điện thoại. Một giọng nữ người Hà Nội bảo với
tôi là cho cô gặp em Hồ Phú Quốc. Tôi đoán chắc phía bên kia đường dây là người
của ban tuyển chọn và linh tính báo cho biết, đây là một điềm lành. Lúc ấy con
tôi đang ngủ trưa, tôi vào nhà trong gọi ngay cháu dậy, cháu liền chạy nhanh ra
để nghe điện thoại. Con tôi được cô ấy cho biết cô là người
trong ban tuyển chọn và có trách nhiệm thông báo
cho con tôi biết là
cháu đã
được tuyển chọn đi học tại Canada. Cô còn hỏi thêm rằng, khi nhận được thông tin này cháu có ngạc nhiên
không. Con tôi trả lời rằng cháu rất ngạc nhiên, vì cứ nghĩ là ngày mai mới có
kết quả và không dám mơ ước là mình sẽ được chọn đi Canada. Cô ấy nói tiếp,
cháu rất xứng đáng để nhận được học bổng này. Sau cuộc điện thoại lịch sử này, niềm
vui của gia đình tôi như được vỡ òa.
Ngày hôm sau, con tôi nhận được một email từ ông David Baird - Chủ tịch
Ủy ban UWC Việt Nam. Email được viết bằng tiếng Anh, nội dung như sau:
Ngày 09/05/2005
David Baird
Chủ tịch Ủy ban UWC Việt Nam
Quốc thân mến,
Chúng tôi muốn giới thiệu bạn một học bổng để đến học tại trường Lester
B. Pearson UWC trong năm học 2005/2006 cũng như năm học 2006/2007. Bạn đã gây
ấn tượng với tất cả chúng tôi trong cuộc phỏng vấn vừa qua và chúng tôi đã nhất
trí trong việc giới thiệu bạn cho học bổng Pearson. Học bổng này có giá trị
trên 50.000 USD và sẽ là một kinh nghiệm tuyệt vời đối với bạn.
Nếu bạn chấp nhận học bổng này, tôi yêu cầu bạn liên hệ với tôi qua
email càng nhanh càng tốt để chúng tôi có thể bắt đầu tiến hành xin thị thực
nhập cảnh và giới thiệu bạn cho trường. Chính trường sẽ là nơi quyết định nhận
vào một cách chính thức.
Một lần nữa, chúng tôi xin chúc mừng trên thành tích học tập xuất sắc
và cho cơ hội lí thú đang nằm ở phía trước của bạn. Bạn sẽ thích thú Pearson
rất nhiều.
Trân trọng,
David Baird
Hiệu trưởng Trường Quốc Tế Liên Hiệp Quốc
Hà Nội, Việt Nam
Khoảng vài ngày sau, con tôi nhận một phong bì lớn từ cô Vũ Thị Hải Anh
- nhân viên của Đại Sứ Quán Canada tại Hà Nội. Phong bì gồm có thư của cô Vũ
Thị Hải Anh, đơn xin visa (thị thực nhập cảnh)
vào Canada và giấy tờ hướng dẫn xin visa. Lá thư cũng được viết bằng tiếng Anh,
tôi trích ra dưới đây một đoạn.
Ngày 10/05/2005
Quốc thân mến,
Chúc mừng thành tích học tập vượt trội của bạn trong năm học vừa qua, đặc
biệt là trong sự cạnh tranh cho một học bổng toàn phần tại Trường Pearson ở
Canada. Đây là thời điểm để bạn xin thị thực nhập cảnh vào Canada, mặc dù trên
thực tế tiến trình nộp đơn chỉ diễn ra khi bạn nhận được quyết định chính thức
từ nhà trường. Như đã hứa, tôi gửi ngay đến bạn mẫu đơn xin thị thực nhập cảnh
và những hướng dẫn. Xin vui lòng đọc tất cả các tài liệu một cách cẩn thận và
làm theo những lời chỉ dẫn. Việc tiến hành thị thực
nhập cảnh có thể kéo dài và đôi khi vất vả. Nếu bạn cần bất cứ sự giúp đỡ nào,
cứ tự nhiên liên lạc với tôi.
……
Trân trọng,
Vũ Thị Hải Anh
Cô Vũ Thị Hải Anh là một người rất cởi mở và nhiệt tình. Bất cứ khi nào
con tôi có điều thắc mắc và cần tìm hiểu thì cũng được cô giải thích một cách tận tình và cặn kẽ. Nếu không có
sự giúp đỡ của cô Vũ Thị Hải Anh, trong buổi đầu ấy
chúng tôi sẽ rất lúng túng trong việc làm đơn và nộp đơn xin visa.
Khoảng một tuần sau, kể từ khi nhận được thư của cô Vũ Thị Hải
Anh, Trường Lester B. Pearson gửi một phòng bì lớn theo dạng chuyển phát
nhanh đến nhà tôi. Phong bì bao gồm thư mời nhập học, một số giấy tờ
liên quan đến việc xin visa và cuốn sách mỏng giới thiệu về nhà trường.
Gia đình chúng tôi bắt đầu tiến hành làm đơn và nộp đơn xin visa tại
Lãnh sự quán Canada ở thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo sau đó, con tôi
đi khám sức khỏe theo sự yêu cầu và chỉ định của chính phủ Canada. Sau
khi hoàn thành các thủ tục, chỉ một thời gian ngắn con tôi nhận được
visa từ Lãnh sự quán Canada.
Thế là mọi việc đã diễn ra một cách mau chóng và thuận lợi. Sau bao
ngày lo lắng cho những sự trở ngại có thể
xảy ra, tôi thở phào nhẹ nhõm và hoàn toàn yên tâm cho chuyến xuất ngoại của
cháu sắp đến. Tôi đặt vé máy bay khứ hồi Canada cho con tôi, và vợ chồng tôi chuẩn
bị hành trang cho cháu lên đường. Ba tháng hè trôi qua thật nhanh, ngày
29/08/2005 tôi đưa con tôi vào Sài Gòn, ngày 02/09/2005 tôi tiễn cháu lên sân
bay Tân Sơn Nhất để bay sang Canada. Con tôi xa quê hương, người thân và bạn bè khi mới chỉ mười bảy tuổi. Ở lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới, con chim non đã bắt đầu rời xa tổ ấm để bay đến một vùng trời xa lạ. Với tôi, giao phó
đứa con trai độc nhất và chưa trưởng thành của mình cho người khác dạy dỗ là cả
một vấn đề lớn.
Nhờ đã tìm hiểu thấu đáo về sứ mệnh giáo dục và môi trường sinh sống
dành cho học sinh của hệ thống các Trường Thế giới Liên kết - nhất là
của Trường Lester B. Pearson, Canada nên tôi hoàn toàn yên tâm và tin
tưởng. Mục đích giáo dục của hệ thống UWC là đem những người trẻ tuổi
trên khắp thế giới vào trong một cộng đồng, để họ cùng chung sống và học
tập, cùng giao lưu văn hóa nhằm tạo ra sự hiểu biết và thúc đẩy hòa
bình trên thế giới trong tương lai. Về mặt kiến thức, Tú tài Quốc tế
(International Baccalaureate - IB) là một chương trình chuyên sâu và
toàn diện của bậc trung học phổ thông. Ngoài ra, IB là chương trình tú tài được
đánh giá cao nhất trên thế giới. Khi tuyển sinh, các đại học hàng đầu
của Bắc Mỹ và Châu Âu thường ưu tiên cho những thí sinh đã theo học
chương trình này. Hệ thống giáo dục của UWC chính là môi trường giáo dục
lí tưởng mà tôi hằng mong ước từ lâu.
Dù xa quê hương, người thân, bạn bè và môi trường quen thuộc nhưng con tôi vẫn không có gì lo lắng và ưu tư. Lúc rời gia đình để vào Sài Gòn hoặc khi chuẩn bị vào phòng cách ly ở sân bay, cháu vẫn không tỏ ra bịn rịn gì cả. Mặc dù hơi buồn vì phải xa đứa con trai thân yêu, nhưng tôi cảm thấy rất vui vì nhận ra con mình đã trưởng thành, độc lập và mạnh mẽ. Đối với con tôi, giấc mơ được đến những chân trời xa lạ để tiếp thu những tinh hoa của xứ người dần dần trở thành hiện thực.
Cơ hội tốt đẹp nhiều khi chỉ đến với trong đời người một vài lần, nếu
ta không kịp nắm bắt thì sẽ vô cùng uổng phí. Cơ hội đã đến với con tôi
một cách bất ngờ và đột ngột, nhưng nếu gia đình tôi không có sự chuẩn
bị cho cháu từ nhiều năm trước thì cơ hội có một không hai này đã vụt
khỏi tầm tay. Do trước đây học bổng của UWC chưa được phổ biến rộng rãi
trên mạng internet nên tôi chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để cháu kiếm
được học bổng đại học tại Singapore, và không bao giờ mơ ước con mình sẽ
được học đại học ở Hoa Kỳ. Không ngờ, chuyện du học của con tôi đã đến
sớm hơn dự tính.
Ủy ban UWC Việt Nam và Trường Lester B. Pearson đã chắp thêm đôi cánh ước mơ để sau đó con tôi có thể bước vào một trong những đại học danh tiếng nhất của thế giới là đại học Princeton của Hoa Kỳ. Ủy ban UWC được thành lập vì mục đích phi lợi nhuận nhằm giúp đỡ cho con em nước Việt có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với bạn bè năm châu và được thụ hưởng một nền giáo dục toàn diện nhất. Rời xa Trường Chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quảng Nam để đến học tập tại Trường Lester B. Pearson, Canada là một bước ngoặt vô cùng quan trọng, bước ngoặt này đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời con tôi. Kể từ đó, nhiều cơ hội khác đã đến và nhiều cánh cửa đã mở rộng ra với cháu.
Ủy ban UWC Việt Nam và Trường Lester B. Pearson đã chắp thêm đôi cánh ước mơ để sau đó con tôi có thể bước vào một trong những đại học danh tiếng nhất của thế giới là đại học Princeton của Hoa Kỳ. Ủy ban UWC được thành lập vì mục đích phi lợi nhuận nhằm giúp đỡ cho con em nước Việt có cơ hội tiếp xúc, giao lưu với bạn bè năm châu và được thụ hưởng một nền giáo dục toàn diện nhất. Rời xa Trường Chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quảng Nam để đến học tập tại Trường Lester B. Pearson, Canada là một bước ngoặt vô cùng quan trọng, bước ngoặt này đã làm thay đổi toàn bộ cuộc đời con tôi. Kể từ đó, nhiều cơ hội khác đã đến và nhiều cánh cửa đã mở rộng ra với cháu.
Để có được chút thành quả như ngày hôm nay, con tôi đã
được rất nhiều người giúp đỡ. Trước tiên là những người trong Ủy ban UWC Việt
Nam - nhất là cô Vũ Thị Hải Anh. Trong tinh thần làm việc tình nguyện, những
người của ủy ban tuyển chọn có một tấm lòng hoàn toàn vô tư, trong sáng và công
bằng. Tiếp theo là Trường Lester B. Pearson, nơi đã cấp học bổng toàn phần cho con
tôi theo học hai năm Tú tài Quốc tế; các thầy cô tại Trường Lester B. Pearson
đã từng hướng dẫn và giúp đỡ tối đa để con tôi có thể mở được cánh cửa của Đại
học Princeton Hoa Kỳ; tỉ phú người Mỹ Shelby Davis đã cấp học bổng toàn phần
Davis Scholarship để con tôi theo học bốn năm tại Đại học Princeton… Còn nhiều
người nữa nhưng tôi không thể nào kể ra cho hết.
Những dòng chữ được viết ở trên là để thay lời cảm tạ những ân nhân mà gia đình chúng tôi không thể nào quên. Câu “trùng trùng duyên khởi” của nhà Phật không thể nào sai! Hiểu theo nghĩa hẹp nhất của cụm từ này là hàng ngàn, hàng vạn nhân duyên hội tụ thì mới có thể tạo nên được những điều kì diệu cho con trai tôi. Tôi luôn nguyện ước là sau khi đã nhận lãnh được những điều quý báu từ lòng nhân ái của nhiều người, trong một tương lai không xa, con tôi sẽ đáp đền tiếp nối và mang lại cho người khác những điều tốt đẹp hơn. Phải chăng đây cũng là sứ mệnh mà hệ thống các Trường Thế giới Liên kết đã và đang thực hiện?
Tam Kỳ, Tiết Xuân Phân, Quý Tỵ - 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét