Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

ĐI TÌM CHÍNH MÌNH

"Sự thành đạt quan trọng nhất trong đời là nhận ra cái Ta của chính mình" SRI NISARGADATTA MAHARAJ (The Nectar of Immortality - Nước Thiêng Của Sự Bất Tử)

Cũng vì lẽ ấy mà Đức Phật và nhiều đạo sư vĩ đại khác đã từ bỏ tất cả để "đi tìm" CHÍNH MÌNH - CHÂN NGÃ - CHÂN NHƯ - THƯỢNG ĐẾ - CÁI TUYỆT ĐỐI - THỰC TẠI TỐI THƯỢNG - BẢN LAI DIỆN MỤC. Hơn hai mươi năm nay tôi cũng học đòi mon men và dò dẫm theo dấu chân các bậc chân sư hòng "tìm thấy" THỰC TẠI TỐI THƯỢNG. Nhưng đây là một hành trình cô đơn và vô định, đầy chông chênh và bất trắc!

Trong trạng thái cô đơn và tịch lặng, thỉnh thoảng tôi được nếm vài giọt linh tửu. Chỉ vài giọt linh tửu cũng đủ làm cho thần trí tôi hứng khởi, say sưa và ngây ngất. Nỗi khao khát ngày càng cháy bỏng, tôi giống như tên bợm rượu, càng nếm càng cảm thấy không thể nào thỏa mãn. Cảm giác nghiện ngập đã khiến tôi dần dần từ giã những lạc thú trần thế và tự nguyện làm người chưng cất thứ linh tửu thần diệu này.

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

CÁT BỤI VÔ THƯỜNG



(Tết năm Nhâm Thân - 1992)

Con chim non bé bỏng của ngày ấy đã rời xa tổ ấm và bay đến những vùng trời xa lạ, còn người cha vẫn ngồi đây với râu tóc đã bạt ngàn lau lách. Thoắt một cái mà đã hai mươi mốt năm trôi qua, cuộc đời giống như cơn đại mộng. 

Vài mươi năm sau nữa, khi đứa con trai bằng tuổi người cha bây giờ thì có lẽ thân xác người cha đã trở về với cát bụi. Ôi, vạn vật vô thường! Ôi, cát bụi tuyệt vời! Ôi, mộng đời bất tuyệt!

Tam Kỳ, tháng 04/2013

Chủ Nhật, 7 tháng 4, 2013

CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG (SIDDHARTHA)



Hermann Hesse là nhà văn bậc thầy mà tôi yêu quý nhất. Câu Chuyện Dòng Sông là người bạn đường của tôi đã 30 năm nay và mãi mãi là bạn đường cho đến khi tiếng chuông gọi hồn vang lên kêu gọi kẻ lữ thứ ở chốn trần gian này đi về một phương trời vô định.

Những dòng chữ ngắn ngủi trên đã thay lời tạ ơn của tôi đối với Hermann Hesse - người đã mở đôi mắt mù lòa của tôi để tôi được nhìn thấy một thế giới Tâm Linh đầy hân hoan và quyến rũ.

Xin giới thiệu cùng thân hữu lời giới thiệu của dịch giả Phùng Khánh (Ni sư Trí Hải) dành cho tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông của Hermann Hesse do NXB An Tiêm in lần thứ 3, năm 1967.

Lời Người Dịch

Quyển “Câu Chuyện Dòng Sông” dịch từ truyện “Siddhartha” trong tập “Weg nach Innen” (Đường về nội tâm) của Hermann Hesse.

Hermann Hesse là một văn hào của văn học Đức ở thế kỷ XX, sống cùng một thế hệ với Thomas Mann, Werfel, Wassermann và E. V. Salomon.

Hermann Hese sinh năm 1877, được giải thưởng Nobel Văn chương năm 1946, tác giả nhiều tập thơ và nhiều cuốn tiểu thuyết bất hủ như Peter Camenzind (1904), Demian (1919), Siddhartha (1922) Der Steppenwolf (1927), Naziss und Goldmund (1930), Das Glaserlenspiel (1943) (*)

Tất cả tác phẩm của Hermann Hesse đều nói lên niềm cô đơn tâm linh của con người thời đại, nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm một chân trời mới cho mình và nhất là những nỗ lực vô hạn để vươn lên mọi ràng buộc của thân phận làm người. Trọn tác phẩm của Hermann Hese là lời thánh ca bay vút lên chín tầng trời, vọng lên nỗi đau đớn vô cùng của của kiếp sống và lòng hướng vọng nghìn đời của con người, dù bơ vơ bất lực mà vẫn luôn luôn tha thiết đi tìm giải thoát ra ngoài mọi giới hạn tầm thường của đời sống tẻ nhạt: 

"Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này" 

Und allem Weh zum Trotze beib ich.
Verliebt in die verrucki Welt.

Khi viết dòng thơ trên phải chăng Hermann Hesse đã muốn nói lên tất cả ý nghĩa của sự nghiệp văn chương ông giữa cơn biến động phũ phàng của thời đại? Ý nghĩa thâm trầm ấy cũng bàng bạc trong Câu Chuyện Dòng Sông.

Đọc Câu Chuyện Dòng Sông, chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời đáng sống và chứa đựng những hương sắc tuyệt vời, mà chúng ta thường bỏ quên và đánh mất giữa đời sống thường nhật. Câu Chuyện Dòng Sông là câu chuyện của mỗi người chúng ta: đó cũng là hình ảnh muôn thưở của trần gian và mộng đời bất tuyệt.

Phùng Khánh

(*) Ghi chú của Hồ Phú Hùng: Nhng tác phm nói trên đã được dch ra tiếng Vit - tr tác phm cui cùng Das Glaserlenspiel (Trò Chơi Ht Thy Tinh).

Thứ Sáu, 5 tháng 4, 2013

CHÚT SƯƠNG KHÓI VỚI BHAGAVAD GÌTÀ - CHÍ TÔN CA


Nhờ một cơ duyên hiếm có, cách đây hai mươi năm tôi đọc được Bhagavad Gìtà(*) - Chí Tôn Ca qua một bản dịch quý giá bằng tiếng Việt do Cơ Sở Phát Triền Văn Hóa Quảng Hóa ấn hành năm 1971. Vì nhiều lí do, tôi cố tình bỏ quên Bhagavad Gìtà trong tủ sách chỉ sau vài lần đọc. Trước tết, tôi mua được một bản dịch tiếng Việt khác của Bhagavad Gìtà. Tuy văn phong của bản dịch mới này hiện đại hơn nhưng nhiều đoạn tối nghĩa và không chuyển tải được cái thần của Bhagavad Gìtà như bản dịch của miền Nam trước năm 1975 .

Để cảm nghiệm lại chặng đường đã qua trên mảnh đất vô vi và xuất thế của Ấn Độ, thời gian gần đây tôi đọc lại Bhagavad Gìtà. Bhagavad Gìtà là Thánh Kinh của Ấn Độ và cũng là tác phẩm vĩ đại về tôn giáo và triết học trên thế giới. Tôi không thể nào diễn tả hết những trải nghiệm của mình về Bhagavad Gìtà mà chỉ phát biểu ngắn gọn về kiệt tác tâm linh này bằng mấy từ: VÔ CÙNG BÌNH AN VÀ SIÊU THOÁT.

Hai mươi năm là một quãng thời gian khá dài trong đời người. Tuy vậy, theo ngôn ngữ của nhà Phật thì quãng thời gian này cũng chỉ bằng một sát na, sát na còn ngắn hơn một giây đồng hồ rất nhiều. Cũng trên căn gác nhỏ tĩnh lặng, mấy hôm nay tôi nằm đọc Bhagavad Gìtà để tìm lại thời gian đã mất. Bởi chú tâm nên tiếng xe cộ, tiếng người nói ngoài kia chỉ là chút vang vọng, khuôn mặt của những năm xưa cũ dần dần hiện hữu. Bỗng nhiên tôi muốn giũ bỏ tất cả để sống an nhiên tự tại, sống như hạc nội mây ngàn như những ngày giữa tháng 8 năm 1996 tại chùa Linh Phong, Đà Lạt. Ước vọng sống một cuộc sống giải thoát tại thế, trở thành gã khổ hạnh, không vợ không con, không cửa không nhà, không căn cước, không bản ngã… lại trỗi dậy mạnh mẽ trong tôi.

Sáng nay đọc đến đoạn: “Nếu trước khi trút bỏ thân xác hiện thời, con người cưỡng lại được những thèm muốn của giác quan vật chất và kìm chế được cả ham muốn lẫn sân hận, anh ta đã tìm được chỗ đứng của mình trong cuộc đời và hưởng hạnh phúc ở cõi thế gian.”  (Bhagavad Gìtà V:23)

Một sự đồng cảm đến lạ thường! Như có điều gì thúc đẩy, tôi bật dậy mở máy ghi vội đôi dòng. Dẫu người đọc những dòng chữ dưới đây cho tôi là một thằng điên điên, dại dại chăng nữa, tôi vẫn muốn ghi lại suy nghĩ của mình.

Theo quy luật tự nhiên, ở vào độ tuổi mãn dục nam thì khả năng tính dục của người đàn ông bắt đầu cạn kiệt. Nhưng vì phần đông vẫn còn thèm khát nữ sắc nên họ đều sợ hãi giai đoạn này, họ gắn liền điều ấy với sự bất lực, già nua, héo úa, lụi tàn… Bởi vậy họ thường vùng lên tìm kiếm mọi phương cách, mọi dược liệu, hòng kéo dài sức “thanh xuân” và chứng tỏ bản lĩnh đàn ông nơi mình. Họ muốn nghịch lại với tạo hóa, muốn làm trái với điều “thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”  (thuận theo thiên nhiên thì tồn tại, ngược lại với thiên nhiên thì tiêu mất) chăng? Sao họ quá u mê và lầm lạc!

Trong những loại lạc thú của thế gian, ái dục là lạc thú mãnh liệt nhất, bởi vì nó luôn đem lại những kinh nghiệm dị thường cho thân xác. Chính thứ dục lạc xác thân này đã níu giữ, không cho con người bay lượn trên vùng trời phúc lạc. Vậy khi ta không còn bị những lạc thú của giác quan lôi kéo và ràng buộc thì chẳng phải đó là điều tự do ư? Ta không cần phải cưỡng lại cơn cám dỗ của dục vọng, mà dục vọng ấy đã tự nó đã ra đi và không quấy rầy ta nữa, chẳng phải là điều vui sướng ư? Tại sao ta lại đem xích xiềng tròng vào cổ?

Cổ nhân biết tiết chế dục vọng còn chúng ta lại sống quá buông thả. Nếu ước ao thỏa mãn mọi dục vọng trần thế và tận hưởng cho hết những lạc thú của giác quan thì đời sống tinh thần của con người làm sao không suy đồi cho được. Để chạy trốn chính mình, con người hiện đại tạo ra quá nhiều khoái lạc thân xác - nhất là rượu chè và tình dục. Họ không dám đối diện với sự thật, tự lừa dối chính mình và không muốn nhìn thẳng vào lẽ vô thường sinh tử. 




(*) Bhagavad Gìtà đã được dịch ra tiếng Anh và tiếng Đức vào cuối thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX. Từ đó về sau, đã có nhiều bản dịch và giới thiệu khác của Bhagavad Gìtà. Những bậc thức giả và hiền triết Âu Mỹ đã đón nhận và ngợi ca Bhagavad Gìtà một cách hào hứng và nồng nhiệt.

- “Tôi chịu ơn Bhagavad Gìtà về một ngày tuyệt diệu trong đời. Đó là tác phẩm số một, có cảm tưởng như là cả một đế chế đang nói với chúng ta; ở đó chẳng có gì là tầm thường, nhỏ mọn, tất cả đều lớn lao, hợp lí, thanh thái; đó là tiếng nói của trí tuệ cổ xưa được suy ngẫm ở thời đại khác và khí hậu khác nhưng đấy cũng chính là những vấn đề đang làm chúng ta bất an”. (Ralp Waldo Emerson)

- “Buổi sáng, tôi đắm chìm lí trí của mình trong triết học hoành tráng của Bhagavad Gìtà, cái mà nếu đem ra so sánh thì thế giới hiện đại của chúng ta và văn chương của nó hình như chẳng có ý nghĩa gì cả”. (Henry David Thoreau)

- "Cái  trung tâm của tôn giáo Ấn Độ ấy cũng là một trong những công trình đúc kết minh bạch và dễ hiểu nhất của Triết học Truyền thống (Perennial Philosophy) mà con người ta từng thực hiện được. Bởi thế nó có một giá trị trường cửu, không phải chỉ đối với dân tộc Ấn Độ mà đối với toàn thể nhân loại".  (Aldous Huxley)

- "Tác phẩm thâm thúy và cao siêu nhất xuất hiện ở thế gian". (Wilhelm von Humboldt)

Trong tác phẩm Những Dị Biệt Giữa Hai Nền Triết Lý Đông Tây, triết gia Kim Định cho biết rằng, Wilhelm von Humboldt không ngớt cám ơn Thiên Chúa cho ông sống lâu để kịp đọc được Bhagavad Gìtà.

Wilhelm von Humboldt là người sáng lập ra Đại học Berlin - Đức (sau được đổi thành Đại học Humboldt). Từ đầu thế kỉ XX, và nhất là sau thế chiến thứ hai, tinh thần tự do học thuật - tự do nghiên cứu và giảng dạy - của Humboldt đã ảnh hưởng toàn triệt đến những đại học nghiên cứu xuất sắc của Hoa Kỳ. Từ đó cho đến nay, nhờ vào vị thế dẫn đầu của mình, các đại học nghiên cứu Hoa Kỳ đã trở thành mẫu mực cho thế giới.