Cách đây hơn hai mươi năm, để giải tỏa
những ẩn ức và bế tắc trong đời sống thường nhật, tôi tự mày mò
tìm hiểu về các trường phái Triết học và Đạo học. Trong hành trình
cô đơn đó, tôi đã bắt gặp Friedrich Nietzsche - triết gia người Đức
cuối thế kỉ XIX. Với tôi, Nietzsche là một triết gia vĩ đại và sâu
sắc, một triết gia có một đời sống cô đơn và “điên loạn” nhất trong
lịch sử nhân loại.
Nhờ sự dẫn đường của hai triết gia Kim
Định và Phạm Công Thiện, tôi đã thấu hiểu Nietzsche được phần nào.
Được cộng hưởng bởi ngọn lửa tỏa sáng từ trái tim của chàng trai
trẻ họ Phạm (Phạm Công Thiện thời tuổi trẻ), tôi tìm ngay đến những
tác phẩm quan trọng của Nietzsche được dịch từ nguyên bản tiếng Đức.
Qua những trang viết rực lửa và đầy cuồng nộ, tôi đã bị nguồn tư
tưởng và sức mạnh tâm linh của Nietzsche quyến rũ hoàn toàn. Tôi đã
say sưa uống từng dòng chữ của Nietzsche như là được uống thứ tiên
tửu của trời cao. Tôi thực sự choáng váng và say mê, sự say mê này
kéo dài trong nhiều năm trời.
Dưới sự ảnh hưởng của Nietzsche và
Thiền Tông Phật giáo, đầu năm 1996, tôi từ bỏ kinh doanh - công việc mà
tôi đang kiếm nhiều lợi nhuận - để đưa đẩy đời mình và gia đình vào
sự bất trắc. Để được phiêu du theo những dòng tư tưởng, ước vọng duy
nhất của tôi là từ bỏ vùng bình nguyên náo nhiệt lên ẩn cư vùng núi
cao tĩnh mịch. Mùa thu năm đó, tôi lên Đà Lạt tìm mua đất đai vườn
tược, và dự tính nếu gặp duyên thì tôi sẽ bán hết gia sản rồi đem
vợ con đến đó định cư. Lần đầu tiên đến Đà Lạt, tôi liền nhận ra
rằng đây chính là vùng núi cao mà tôi luôn luôn mơ tưởng. Tuy vậy, sau
vài lần thăm dò và xem xét địa thế, tôi hiểu ra rằng đây không phải
là chốn thích hợp cho vợ con mình. Trong mười ngày ở Đà Lạt, tôi ít
khi ra ngoài mà nằm lì ở chùa Linh Phong - nơi tôi có người chị đang
tu hành - để đọc kinh Phật mà chẳng màng gì đến công việc đã dự
tính. Chùa Linh Phong là chùa sư nữ nên đàn ông không được phép tá
túc ở đó - trừ các vị tì kheo đã xuất gia. Khi diện kiến Sư bà Từ
Hương, Sư Bà là sư trưởng chùa Linh Phong, không hiểu vì sao Sư Bà đã
dành cho tôi nhiều ưu ái. Sau khi gặp gỡ và đôi câu trò chuyện, Sư bà
đã cho phép tôi được ở lại và ăn cơm chùa tùy thích. Có lẽ đây là
lần đầu tiên Sư bà dành biệt nhãn cho người trong cõi trần tục và
đã dỡ bỏ luật lệ của tự viện với tôi. Nay Sư bà đã viên tịch nhưng
tình nghĩa ấy tôi vẫn khắc ghi.
Mới đó mà đã mười bảy năm trôi qua, giờ
ngẫm lại, tôi thấy mình suýt phạm phải sai lầm trong việc muốn đưa
cả một gia đình vào cuộc phiêu lưu không lường trước. Nhiều khi tôi tự
hỏi: Nếu ngày ấy tôi cứ khăng khăng sống theo ước vọng của mình mà
không kể gì đến người thân thì không biết bây giờ vợ con tôi sẽ ra
sao? Con tôi có được những thành tựu tốt đẹp như ngày hôm nay và vợ
tôi có được đứng trên bục giảng để tiếp tục thực hiện được ước mơ
từ thuở học trò không?
Trước đây, vợ tôi đi dạy cách nhà 25 cây
số nên mỗi tuần mới về nhà một lần. Sau khi sinh con và hết kì hạn
nghỉ sinh, vợ tôi phải bồng con trở lại khu tập thể của nhà trường.
Buổi sáng năm xưa, vợ tôi ôm con và xách va li, đón xe đến trường để
chuẩn bị đi dạy trở lại thì ngay trưa ngày hôm đó, tôi tất tả chạy
xe máy đến trường và đề nghị vợ tôi viết đơn xin nghỉ dạy hẳn. Vợ
tôi là một người vợ hiền thục như những người phụ nữ thời xưa, bao
giờ cũng nghe lời chồng nên đã vui vẻ đồng ý. Lí do quan trọng nhất
mà tôi muốn vợ tôi nghỉ dạy là tôi vô cùng thương nhớ con, tôi không
thể xa đứa con trai yêu quý mà mình đã từng nâng niu và bồng ẵm gần
một năm qua. Lí do thứ hai là tôi không cam lòng để con tôi bò lê, bò
lết trong cái nhà trẻ dành cho con giáo viên của nhà trường. Không
phải tôi coi thường nhà giữ trẻ ấy, những cô giữ trẻ cũng rất tận
tâm, nhưng vì nhiều trẻ quá thì làm sao mà chăm sóc cho chu đáo được.
Thế là ngay tối hôm đó, gia đình tôi lại sum họp.
Trong thời gian này, cuộc sống kinh tế
của gia đình tôi khá bấp bênh, bởi trong thời buổi khó khăn ấy mà
chỉ có một mình tôi kiếm ra tiền để lo cho gia đình. Dù gia đình lớn
của tôi là một gia đình khá giả nhưng vì tự trọng nên không bao giờ
tôi giãi bày những khó khăn do chính mình tạo ra. Trong sự bế tắc
đó, tôi - một người thiếu thực dụng - bắt đầu vạch ra kế hoạch và
mượn vốn để kinh doanh. Bước vào lĩnh vực kinh doanh, do không quen
cách giao tiếp của người buôn bán, không biết lấy lòng khách hàng để
đem cái lợi về mình; vì thế, vợ chồng tôi đã gặp nhiều khó khăn
trong buổi ban đầu, nhưng nhờ tính trung thực của chúng tôi nên mọi
việc rồi cũng êm xuôi và kinh tế của gia đình tôi tạm ổn định. Khi
kinh tế bắt đầu ổn định, tôi lại tìm đến thế giới của sách vở,
cái thế giới mà tôi không thể nào quên. Sau sáu năm kinh doanh, công
việc đang trên đà phát triển thì do ảnh hưởng từ sách vở, tôi bỏ
ngang và muốn lên vùng núi cao để sống trong sự cô tịch. Vợ tôi lúc
nào cũng chiều theo ý tôi nên đã đồng ý nghỉ công việc kinh doanh.
Trong việc giáo dục con cái, định hướng
tương lai cho con cái thì tôi không bao giờ dám hành động theo cảm
hứng, nhưng riêng việc lo kinh tế cho gia đình thì tôi lại làm theo cảm
hứng. Tôi đang làm việc gì đó nhưng nếu không ưa thích công việc này
thì sớm muộn gì tôi cũng bỏ. Tuy sống tùy hứng, nhưng tôi luôn có
những quyết định sáng suốt nên mọi việc rồi cũng ổn thỏa. Bởi luôn
sống bằng cảm hứng nên không bao giờ tôi góp ý với người thân -
nhất là những đứa em trong gia đình về những điều bình thường trong
đời sống. Vì vậy, dưới mắt của các em tôi, tôi trở thành kẻ ích kỉ, do thiếu đầu óc thực dụng nên ít khi tôi khuyên bảo và giúp đỡ người thân.
Thật là oan cho tôi, bởi chính tôi tính chuyên cho tôi còn chưa xong thì nào đâu
dám khuyên nhủ người khác. Cũng vì tôi chọn lựa lối sống nghèo tự
nguyện, tuy nghèo nhưng nhàn nhã, nghèo nhưng bao giờ tinh thần cũng an
lạc nên tôi bị người thân ngộ nhận. Sau lưng tôi bao lời trách móc là
tôi chỉ biết lo cho vợ con mà không chịu lo cho người khác. Tôi chẳng
bao giờ coi trọng dư luận, vì thế tôi luôn im lặng và chịu đựng. Cái
gia đình nhỏ luôn đem lại cho tôi yêu thương, hi vọng và an lành thì
trái lại, cái đại gia đình ấy thỉnh thoảng đã đem lại cho tôi những
buồn bực, thất vọng và chán nản. Phải chăng đó là định mệnh và
nghiệp lực mà tôi phải gánh lấy?
Trở lại với Nietzsche và chuyến đi Đà
Lạt. Thứ rượu tiên từ trời cao tuy cần thiết cho tâm hồn, nhưng tôi
vẫn phải cần thứ lương thực hạ giới để nuôi sống xác thân tôi và con
cái tôi. Tôi đành giã từ Nietzsche và những tác phẩm của ông, giã từ
điều mà triết gia Kim Định đã từng nói: “Đọc Nietzsche tôi nghe tâm
hồn phừng phừng sôi nổi.” (Triết Lý Giáo Dục - NXB Ca Dao, Sài
Gòn, 1975 - trang 81). Tôi phải trở về với đời thường để trả nợ áo
cơm, để nuôi dạy con cái và cố quên bóng ma của Nietzsche luôn luôn mời
gọi.Từ ngày ở Đà Lạt trở về, tôi loay hoay tìm kế sinh nhai, cách
mưu sinh mới mà tôi chọn lựa là êm ả, tránh va chạm và không đi xa.
Sau nhiều lần suy nghĩ, tháng 04/1997 tôi bắt đầu công việc mới. Một
thời gian ngắn, công việc dần dần có kết quả khả quan. Trong năm sau,
vợ tôi có nguyện vọng trở lại nghiệp cũ nên nộp đơn thi công chức để
vào biên chế nhà nước, may mắn vợ tôi trúng tuyển và bắt đầu đi dạy
lại cho đến ngày hôm nay. Năm 2007, con tôi được đại học Princeton, Hoa
Kỳ cấp học bổng toàn phần cho bốn năm đại học; như vậy từ đây con
tôi đã tự lo liệu được cho mình. Nhờ không còn lo tài chính cho con ăn
học, tôi từ bỏ kinh doanh tiếp để theo đuổi “cuộc chơi” đã vạch ra từ
hai mươi năm trước, bất kể lối sống thiếu thực tế này không biết sẽ
đưa tôi về đâu.
Khi viết những dòng chữ trên, tôi luôn
cám ơn vợ tôi, có lẽ vợ tôi là người duy nhất dám đi cùng chồng vào
con đường chông chênh và vô định ấy. Vì luôn trân trọng những ước vọng
điên cuồng của tôi nên vợ tôi không bao giờ chống đối và phê phán,
hoặc không bao giờ đem tôi so sánh với bất kì ai đang có được danh
vọng hoặc tiền tài. Để tôi được hoàn toàn thỏa mãn trong đời sống
tinh thần như ngày hôm nay. Vợ tôi đã
hi sinh rất nhiều, kể cả chịu đựng cái tính khí thất thường
của tôi để tôi được sống tự do theo ý muốn. Tôi nói ra điều này mà không ngại mang tội đại bất hiếu:
“Trên cõi đời này, vợ tôi là người đã đối xử với tôi một cách tốt
đẹp nhất - tốt đẹp hơn cả bậc sinh thành ra tôi”.
Giờ đây đối với Nietzsche, lòng tôi đã
nguội lạnh. Thỉnh thoảng, trong đôi bài viết ngắn tôi có nhắc sơ qua
về Nietzsche. Thời gian gần đây, do không còn tin tưởng mấy vào những
ràng buộc của những gì thuộc giá trị của truyền thống, tôi lại
nghĩ đến Nietzsche và triết lý của ông. Điều quan trọng còn đọng lại
sau bao nhiêu năm quên lãng kia là chương sách “Về Ba Cuộc Hóa Thân”
nằm trong kiệt tác Zarathustra Đã Nói Như Thế (Also Spach
Zarathustra) của Nietzsche. Qua “Về Ba Cuộc Hóa Thân”, Nietzsche
muốn đưa thông điệp đến cho con người hậu thế về cuộc hóa thân tinh
thần: “Làm thế nào tinh thần trở thành lạc đà, làm thế nào lạc đà biến thành
sư tử, và cuối cùng, làm thế nào sư tử trở thành trẻ thơ”. Lạc đà đi vào sa
mạc tịch liêu, chuyên chở gánh nặng của văn hóa, truyền thống, giáo
dục: đây chính là những giá trị xưa cũ. Sư tử là chúa tể của sa
mạc, luôn luôn hung dữ và cuồng bạo: phê phán và đập phá các giá
trị đã được con người định đặt ra từ trước. Trẻ thơ là đứa hài nhi
vô tư và thơ dại: khởi đầu con đường sáng tạo ra những giá trị vĩnh
cửu.
VỀ BA CUỘC HÓA THÂN - FRIEDRICH
NIETZSCHE
“Ta sẽ thuyết minh cho các ngươi nghe về ba cuộc
hóa thân của tinh thần: làm thế nào tinh thần trở thành lạc đà, làm thế nào lạc
đà trở thành sư tử, và sau cùng làm thế nào sư tử trở thành trẻ thơ.
Có rất nhiều gánh nặng đối với tinh thần, đối với
tinh thần dũng mãnh kiên trì được sự tôn kính khích động: dũng lực của tinh
thần ấy đòi hỏi những gánh nặng nặng nề nhất.
Có cái gì nặng nề đâu? Tinh thần can đảm cất
tiếng hỏi như thế; rồi nó quỳ gối như con lạc đà và muốn người ta chất thật
nặng lên lưng mình.
Hỡi kẻ anh hùng, đâu là gánh nặng nặng nề nhất để
cho tôi hất lên mình tôi và để cho sức mạnh của tôi được vui hưởng? - Tinh thần
can đảm lên tiếng hỏi như thế.
Há chẳng phải là điều này: tự khiêm tốn nhún
nhường để xúc phạm đến lòng kiêu hãnh của mình? Làm hiển lộ cơn điên nơi mình
để biến trí huệ hiền minh thành trò cười thiên hạ?
Hoặc giả là điều này: từ bỏ chính nghĩa mình
đúngvào lúc nó đang xưng vinh sự chiến thắng? Leo lên những đỉnh núi cao để cám
dỗ kẻ cám dỗ?
Hoặc giả là điều này: sinh sống bằng những trái
dẻ rừng cùng cỏ non của tri thức, và chịu đựng cơn đói cào nát tâm hồn, vì tình
yêu chân lý?
Hoặc giả là điều này: ngã bệnh và xua đuổi hết
những kẻ an ủi đi, để kết bạn với những người điếc, những người chẳng hề nghe
được những gì ngươi muốn nói?
Hoặc giả là điều này: lặn sâu xuống làn nước đục,
nếu đó là nước của chân lý, và không xua đuổi những con ếch lạnh cùng những con
cóc nóng sốt?
Hoặc giả là điều này: yêu thương kẻ khinh bỉ ta
và đưa tay về phía ma quỷ khi ma quỷ muốn làm ta khiếp hãi?
Tinh thần dũng mãnh nhận lãnh tất cả những gánh
nặng đó: như con lạc đà vừa được chất hàng xong, vội vã lên đường về sa mạc,
tinh thần dũng mãnh cũng vội vã về với sa mạc của đời mình như thế.
Nhưng giữa lòng sa mạc hoang liêu cô độc nhất đã
thành tựu cuộc hóa thân thứ nhì: ở đây tinh thần biến thành sư tử, tinh thần
muốn chinh phục tự do và làm chủ sa mạc riêng của mình.
Ở đây tinh thần tìm kiếm người chủ cuối cùng của
nó: tinh thần muốn làm kẻ thù của người chủ ấy, và làm kẻ thù của vị Thượng đế
cuối cùng của mình; để đạt chiến thắng vinh quang, tinh thần muốn chiến đấu với
con đại khủng long.
Đâu là con đại khủng long mà tinh thần không còn
muốn gọi là Thượng đế hay Chủ nhân nữa? Con đại khủng long ấy là “Mi
phải”.Nhưng tinh thần của con mãnh sư thì bảo rằng “Ta muốn”.
Con đại khủng long “Mi phải” rình dò tinh thần
dọc đường, lấp lánh ánh vàng dưới lớp da sừng có muôn ngàn vẩy và trên mỗi vẩy,
lóe sáng dòng chữ vàng: “Mi phải”.
Những giá trị cổ lỗ ngàn đời lấp lánh sáng trên
những chiếc vẩy ấy, và con rồng mạnh nhất trong loài rồng nói như thế này: “Giá
trị của tất cả vạn sự đang lấp lánh trên mình ta”.
Tất cả giá trị đã được sáng tạo nên, cũng như tất
cả những giá trị đang được sáng tạo, đều nằm trong ta. Thực ra, không nên có
câu “Ta muốn” nữa! Con đại long ấy nói như thế.
Hỡi những anh em ta, tại sao lại cần đến con mãnh
sư của tinh thần? Chúng ta há chẳng có khá đủ loài vật khỏe mạnh vừa có tinh
thần khước từ vừa tuân phục hay sao?
Sáng tạo nên những giá trị mới; - đó là điều mà
ngay cả con mãnh sư cũng chưa làm được; nhưng tự giải phóng mình để tiến đến
những sáng tạo mới mẻ, - đấy là điều mà sức mạnh của con mãnh sư có thể làm
được.
Tự giải phóng mình, thốt ra tiếng “Không” linh
thiêng ngay cả với bổn phận: đấy là nhiệm vụ dành cho con mãnh sư, hỡi những
anh em của ta.
Chinh phục quyền sáng tạo những giá trị mới, -đấy
là cuộc chinh phục khủng khiếp nhất đối với một tinh thần kiên khổ và đầy lòng
tôn kính. Thực ra, đối với tinh thần, đấy là một sự đánh cướp và là hành vi của
một con thú săn mồi.
Ngày xưa, tinh thần yêu mến câu “Mi phải” như là
điều thiện hảo linh thánh nhất của mình; giờ đây tinh thần phải thấy sự ảo
tưởng và độc đoán ngay cả trong điều linh thánh nhất, cốt để tự do giải phóng
khỏi tình yêu mến của mình: cần phải có một con mãnh sư cho một cuộc đạo tặc
như thế.
Nhưng hỡi các anh em, hãy nói ta nghe, đứa trẻ
thơ có thể làm điều gì mà con mãnh sư đã không thể làm được? Tại sao con mãnh
sư dữ tợn phải biến thành trẻ thơ?
Trẻ thơ là sự ngây thơ và quên lãng, một sự tái
khởi miên viễn, một trò chơi, một bánh xe quay vòng quanh mình, một vận chuyển
đầu tiên, một tiếng “Vâng” linh thánh.
Vâng, hỡi các anh em, đối với trò chơi sáng tạo,
cần phải có một tiếng “Vâng” linh thánh. Ý chí riêng của chính mình, đấy chính
là điều mà hiện giờ tinh thần mong muốn; thế giới riêng của chính mình, đấy là
điều mà kẻ đã đánh mất thế giới muốn chiếm được.
Ta đã nêu ra với các anh em ba sự hóa thân của
tinh thần: làm thế nào tinh thần trở thành lạc đà, làm thế nào lạc đà biến
thành sư tử, và cuối cùng, làm thế nào sư tử trở thành trẻ thơ”.
Zarathustra nói như thế. Và vào lúc này,
Zarathustra cư ngụ trong thành phố mà người ta gọi là thành phố Con Bò Tạp Sắc.
Zarathustra Đã Nói Như Thế -
Trần Xuân Kiêm dịch (NXB An Tiêm, Sài Gòn 1971, trang 33 - 37)