Suốt đời mình, Krishnamurti nhất mực từ chối danh hiệu đạo sư mà nhiều người đã tìm cách phong tặng. Ông thu hút vô số người nghe trên toàn thế giới nhưng không bao giờ đòi hỏi uy quyền cũng như thu nhận đệ tử, ông thuyết giảng như một con người nói chuyện với một con người. Cốt tủy giáo pháp của ông là sự nhận thức được rằng mọi thay đổi căn bản trong xã hội chỉ xảy ra khi có sự chuyển hóa ý thức cá nhân. Krishnamurti luôn luôn nhấn mạnh về sự biết rõ chính mình, hiểu được những ảnh hưởng của sự hạn chế và chia rẽ trong việc quy định mang màu sắc của tôn giáo và quốc gia. Ông chỉ rõ tính cần thiết của sự cởi mở, vì đó là “không gian bao la trong bộ não có sẵn một năng lượng ngoài sức tưởng tượng”. Hình như đó chính là suối nguồn sáng tạo bất tận của ông và cũng là yếu tố then chốt của ảnh hưởng mang tính xúc tác mà ông đã tác động lên khối nhân loại đông đảo và đa dạng này.
Krishnamurti không ngừng thuyết giảng trên toàn thế giới cho đến khi mất vào năm 1986 ở tuổi 90. Những bài diễn thuyết, đối thoại, nhật kí và thư từ của ông đã được lưu giữ trong hơn 60 bộ sách. Từ nguồn giáo huấn phong phú đó mà loạt sách chủ đề này đã được kết tập và ấn hành. Mỗi cuốn sách đặt trọng tâm vào một đề tài có liên quan chuyên biệt và tính khẩn thiết của nó trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
(Lời Nói Đầu tác phẩm OnLiving and Dying - Về Sống và Chết)
CÁI TÔI
Tại sao ta thèm khát được thiên hạ biết đến, thích được thiên hạ nể vì, ham được khuyến khích? Tại sao ta nông nổi đến vậy? Tại sao ta níu cứng vào những cái riêng rẽ của tên gọi, địa vị, sự nghiệp? Không tên tuổi thì tồi lắm sao? Không được đời biết thì hèn lắm sao? Tại sao ta đuổi theo tiếng tăm, cần được ái mộ? Tại sao ta không bằng lòng ta? Phải chăng vì ta sợ ta, ta xấu hổ đã trót là ta, nên tên gọi, địa vị và sự nghiệp mới trở thành quan trọng vậy? Thiệt là quái gở sao mà lòng thèm khát của ta mạnh quá quắt đến như vậy, cứ muốn phải có tên tuổi, phải được hoan nghinh? Trong cơn kích động của đấu trường, người ta làm đủ việc lạ lùng để được tôn kính; người ta được suy tôn là anh hùng vì giết được một đồng loại. Bằng vào những uy quyền, thiên tư, khả năng hoặc thành quả, người ta leo trèo lên gần hơn mức tuyệt đỉnh - tuy nói tuyệt mà không “tuyệt” bao giờ, vì càng ngày càng có những đỉnh cao thêm mãi mọc lên trong khối óc nhiễm phải mầm độc thành công…
Tại sao ta thèm khát được thiên hạ biết đến, thích được thiên hạ nể vì, ham được khuyến khích? Tại sao ta nông nổi đến vậy? Tại sao ta níu cứng vào những cái riêng rẽ của tên gọi, địa vị, sự nghiệp? Không tên tuổi thì tồi lắm sao? Không được đời biết thì hèn lắm sao? Tại sao ta đuổi theo tiếng tăm, cần được ái mộ? Tại sao ta không bằng lòng ta? Phải chăng vì ta sợ ta, ta xấu hổ đã trót là ta, nên tên gọi, địa vị và sự nghiệp mới trở thành quan trọng vậy? Thiệt là quái gở sao mà lòng thèm khát của ta mạnh quá quắt đến như vậy, cứ muốn phải có tên tuổi, phải được hoan nghinh? Trong cơn kích động của đấu trường, người ta làm đủ việc lạ lùng để được tôn kính; người ta được suy tôn là anh hùng vì giết được một đồng loại. Bằng vào những uy quyền, thiên tư, khả năng hoặc thành quả, người ta leo trèo lên gần hơn mức tuyệt đỉnh - tuy nói tuyệt mà không “tuyệt” bao giờ, vì càng ngày càng có những đỉnh cao thêm mãi mọc lên trong khối óc nhiễm phải mầm độc thành công…
Dầu bằng đường lối nào, hoặc vụng
hoặc khéo, cái tôi vẫn được nuôi dưỡng và bồi bổ. Ngoài những việc làm phi nhân,
phản xã hội của nó ra, tại sao cái tôi phải được duy trì mãi? Dầu rằng ta mắc
trong cơn bấn loạn và buồn phiền, với những niềm vui chốc thoáng, tại sao cái
tôi cứ đuổi theo những chuyện nhất định sẽ đưa đến khốn khổ và đau thương? Niềm
khao khát hoạt động tích cực cho cái thực nhằm chống lại cái hư thúc đẩy ta
tranh đấu để hiện hữu; có tranh đấu ta mới có cảm tưởng sống, đời ta mới có mục
đích, và lần hồi ta sẽ từ bỏ được mầm xung đột và buồn phiền. Ta nghĩ rằng nếu
hoạt động ngưng hết thì ta sẽ không còn là cái gì hết, ta tàn tạ, và cuộc sống
mất hết ý nghĩa; và nghĩ vậy tức ta đứng nguyên ở thế kẹt giữa hỗn loạn, xung đột
và mâu thuẫn. Nhưng đồng thời ta cũng ý thức đến một cái gì khác hơn, siêu lên
và vượt ra ngoài tất cả nỗi khốn đốn ấy. Như thế là có cuộc nội chiến ở trong
ta vậy.
Bên ngoài ông sang trọng bao
nhiêu, bên trong ông nghèo nàn bấy nhiêu; tuy nhiên quấn khố đi ra đường vẫn
chưa phải là thoát nghèo. Sở dĩ ông nghèo, ông trống không bên trong, vì ông
thèm khát trở thành; và dầu làm gì, cái không ấy vẫn không bao giờ lấp đầy được;
dầu ông làm gì vẫn là mưu toan lẫn tránh - hoặc vụng hoặc khéo - mà tránh đi
đâu thì cái không ấy vẫn thân thiết sát kề bên ông như bóng của chính ông. Dầu
ông không muốn đoái hoài đến cái không ấy, nhưng nó vẫn sờ sờ đó. Cái tôi của
ông, dầu cởi bỏ mất đi hoặc điểm tô thêm, vẫn không bao giờ che đậy được cái
nghèo ở bên trong. Bằng những hoạt động tiêu cực hay tích cực, cái tôi xoay xở
đủ cách để làm giàu và gọi đó là kinh nghiệm hoặc gì gì khác tùy theo sở thích.
Cái tôi không bao giờ chịu vô danh. Nó có thể choàng một lớp áo khác, mang một
cái tên khác, nhưng vẫn là cái cốt cũ ấy. Chính cái mưu mô đồng hóa ấy ngăn
cách ta nhận ra thực chất của nó…
(Commentaries on Living I - Đường Vào Hiện Sinh, Trúc Thiên dịch, NBX An Tiêm 1969, trang 120-123)