Mỗi khi có dịp nói về nhà cách mạng Trần Cao
Vân, người ta thường nhắc đến học thuyết Trung Thiên Dịch. Theo nhận định của
một vài tác giả viết về Trần Cao Vân như Trần Công Định, Nguyễn Q Thắng, Hoàng Phủ
Ngọc Tường, Tô Đình Cơ thì Trung Thiên Dịch là một tác phẩm đặc sắc của ông về
việc nghiên cứu và sáng tạo lại Kinh Dịch theo tinh thần hoàn toàn Việt Nam. Chính
vì lẽ đó, Trung Thiên Dịch không nô lệ vào học thuật của các triết gia Trung
Quốc - nhất là Chu Hi – một triết gia đời Tống đã tập đại thành những nghiên
cứu về Dịch học của những thế hệ trước. Thậm chí, Trung Thiên Dịch còn muốn
vượt ra khỏi quỹ đạo người sáng tạo ra Kinh Dịch là Phục Hi (Tiên Thiên Dịch)
và người có công bổ túc và xiển dương nó là Văn Vương (Hậu Thiên Dịch).
Từ trước đến nay, chưa từng có một ai làm
việc trực tiếp với Trung Thiên Dịch, thậm
chí còn chưa nhìn thấy “mặt mũi” của nó ra sao. Những nhận định nói trên chỉ
dựa vào truyền thuyết là chính nên không thể có giá trị về mặt học thuật. Vì
thế, không thể dựa vào cái tên Trung
Thiên Dịch để đánh giá tư tưởng của Trần Cao Vân.
Thật
may mắn, sau bao biến cố của lịch sử nước nhà, trong những sáng tác còn sót lại
của Trần Cao Vân, chúng ta tìm thấy một bài thơ hết sức lạ lùng bằng chữ Nho(1).
Bài thơ này đã được dịch sang quốc ngữ với tựa đề là Vịnh
Tam Tài(2) :
Trời Đất
sinh Ta có ý không?
Chưa sinh Trời Đất
có Ta trong
Ta cùng Trời Đất
ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một
chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời
chuyển động
Ta thay Trời mở
Đất mênh mông
Trời che Đất chở
Ta thong thả
Trời
Đất Ta đây đủ hoá công.
Nương theo Vịnh
Tam Tài, chúng ta có thể tìm hiểu về thế giới quan và nhân sinh quan của
Trần Cao Vân. Theo thiển ý, Vịnh Tam Tài
là một viên ngọc quý giá, sáng ngời và trong veo trong kho tàng tư tưởng của
dân tộc. Vịnh Tam Tài mang đến cho
chúng ta tinh thần và hơi thở của một thời đại đã qua. Ngoài ra, bài thơ còn
cho chúng ta cảm nhận được tư tưởng Nhân bản Tâm linh thuần khiết nhất - một
nét vô cùng đặc sắc của nền triết li Viễn Đông.
Khi so sánh nền triết lí Nhân bản Tâm Linh với các hệ thống triết học và tôn giáo khác, chúng
ta nhận thấy không ở đâu con người được đề cao ngang hàng với trời đất như ở
Viễn Đông. Theo quan niệm của Tây Phương trước đây, con người là con của đấng
thượng đế và chỉ là một vật thụ tạo, Vì
vậy, thời ấy nếu có người nào phát ngôn như ông thì chắc chắn sẽ bị ghép tội phản
nghịch và tính mạng khó được an toàn. Tại Ấn Độ, nơi xuất sinh nhiều hệ thống triết
học đồ sộ thì yếu tố con người vẫn bị xem nhẹ. Những đạo sư của Ấn Độ chuyên
tâm dồn mọi nỗ lực vào đời sống “giải thoát” cá nhân nên đã lãng quên con người
và xã hội.
Vào những thập niên cuối của thế kỉ XIX và đầu thế
kỉ XX, những tư tưởng gia Tây Phương đã bắt đầu khẳng định lại vị trí của con
người trong vũ trụ nhân sinh. Những nhà tư tưởng ấy muốn vượt thoát khỏi dòng
tư tưởng thâm căn cố đế trong truyền thống của mình, một hệ thống triết chuyên
bàn về những vấn đề không ăn nhập gì đến nhân sinh, quên hẳn con người đang
hiện hữu “ở đây và bây giờ”; vì vậy,
đã có một mùa triết học hiện sinh nở rộ trên vòm trời tư tưởng Tây Phương. Khi
tìm về cội nguồn của tư tưỏng Tây phương trước thời Socrate, ba khuôn mặt nổi
danh nhất của Triết học Hiện sinh cận đại của Đức là Nietzsche, Jaspers và
Heidegger vô tình tiếp cận và hội thông với truyền thống Nhân bản Tâm linh của
Đông phương. Họ nhận thấy con người Tây Phương đương thời đã bị vong thân và
vong bản bởi những thế lực siêu hình, tôn giáo, chính trị và xã hội. Vì lẽ ấy, những
triết gia này đã gióng lên tiếng chuông báo động để thức tỉnh và cứu nguy con
người Tây Phương ra khỏi sự sụp đổ, phá sản của tư tưởng Tây Phương từ triết
gia Socrate trở về sau. Họ đã thành công hay thất bại? Đây không phải là mục
đích của bài viết này, người viết chỉ muốn nói rằng, trong lúc những tư tưởng
gia nói trên đã cố gắng đưa ra một thông điệp cho giới trí thức của họ suy
tưởng, thì tại một xứ sở lạc hậu về mặt vật chất và đang còn chìm trong vòng nô
lệ của thực dân đã nảy sinh một nhà cách mạng, nhà tư tưởng từng đề cao con
người một cách thấu đáo trong bài thơ Vịnh
Tam Tài.
Tại sao người viết dám đại ngôn về tư tưởng Trần Cao
Vân trong khi ông không để lại một hệ thống triết học tầm cỡ nào cả? Truyền
thống Nhân bản Tâm linh của Đông Phương đã sản sinh nhiều nhà tư tưởng khác hẳn
với truyền thống của Tây Phương. Những nhà tư tưởng Đông Phương (nói cho đúng
họ là những nhà đạo học Đông Phương) rất ít lí luận và diễn giải. Trước tác của
họ thông thường chỉ là vài bài thơ, vài đoản văn, hoặc một vài câu kệ; người đọc,
người nghe theo đó mà chiêm nghiệm và suy ngẫm. Chính đời sống đạt đạo và viên
mãn của họ đã minh chứng cho một nền triết học thâm sâu và sống động. Các vị ấy
không phải là những triết gia chỉ biết luận lí suông, họ chính là những bậc
thánh triết, hiền triết hay là triết nhân trong cõi nhân sinh. Những nhà tư
tưởng ấy luôn đem hết tâm lực để phục vụ cho đời sống tâm tư cũng như cuộc đời
hành động của chính mình.
Lão Tử từng nói: “道 可 道, 非 常 道; 名 可 名, 非 常 名 - Đạo khả đạo, phi thường
đạo; danh khả danh phi thường danh” (Đạo
có thể diễn giải được không phải là đạo thường hằng; tên có thể định nghĩa được không phải là tên thường hằng) Đạo Đức Kinh.
Khổng Tử thì: “子 曰 予 欲 無 言...
天 何 言 哉, 四 時
行 焉, 百 物 生 焉, 天 何 言 哉 - Tử viết: Dư dục vô ngôn... Thiên
hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên, thiên hà ngôn tai?” (Khổng tử nói: Ta không muốn nói gì cả... Trời
có nói gì đâu? Bốn mùa qua lại, vạn vật sinh trưởng, Trời có nói gì đâu?) Luận Ngữ.
Phật
giáo Thiền Tông thường lưu truyền bài kệ:
不 立 文 字
教 外 别 傳
直 指 人 心
見 性 成 佛
“Bất
lập văn tự. Giáo ngoại biệt truyền. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tánh thành Phật”.
(Chẳng lập văn tự. Truyền riêng ngoài sự giảng dạy. Chỉ thẳng tâm
người. Thấy tánh thành Phật).
Những
bậc thầy ở Đông phương chỉ gợi mở và chỉ dẫn cho đệ tử thấy con đường đạo lí, các
môn đệ phải tìm tòi, suy tưởng và tự thực hiện. Đó chính là nền tảng trong sự
trao truyền minh triết tại Đông phương.
Di sản
Vịnh Tam Tài của Trần Cao Vân đề cập ở
trên đã cho chúng ta cảm nhận được những gì giữa đời sống điên đảo vô thường của
một kiếp nhân sinh? Khi chúng ta nghiền ngẫm, từng câu, từng câu một thì sự thật
sẽ bùng vỡ và làm hiển lộ những tia sáng đặc biệt, diệu kì.
Trời
Đất sinh Ta có ý không?
Trời
Đất cũng như Ta chẳng ai sinh ra ai cả. Con người vốn dĩ an nhiên tự tại, không
nô lệ cho bất cứ thế lực thần quyền, thế quyền cũng như vật quyền nào cả. Sự có
mặt của ta là đầy dủ, là cùng đích tự thân, là tự tồn tại rồi. Có Trời, có Đất
thì cũng có Ta, thế thôi! Không một ai có quyền nhào nặn ta theo một ý riêng tư
nào cả, nhưng tiếc thay, con người đã bỏ đi sự tự do và tự trói mình vào “xiềng
xích”.
Chưa
sinh Trời Đất có Ta trong
Dù
chưa sinh ra nhưng ta cũng đã tham dự cùng Trời Đất. Điều này mang một ý nghĩa
tâm linh đích thực, chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm điều này bằng sự lâng lâng
siêu thoát của tâm hồn chứ không thể giải thích bằng luận lí của trí não. Cái
Ta ở đây không phải là cái ta nhỏ bé của đời sống xác thân, nhưng là Đại ngã Tâm linh bất biến trường tồn.
Trong
thời gian ẩn dật tu hành tại chùa Cổ Lâm, huyện Đại Lộc, Quảng Nam, chắc chắn
Trần Vao Vân đã nghiền ngẫm kinh, luận của Phật giáo và hành trì thực sự. Vì thế,
tuy là một nhà Nho nhưng đạo Phật cũng ảnh hưởng sâu đậm vào nhân sinh quan của
ông. Trần Cao Vân cũng như
phần đông Nho sĩ thời bấy giờ thường sống theo tinh thần Tam giáo: Nho - Phật -
Lão. Gặp lúc thời cuộc bế tắc, trong lúc chờ đợi thời cơ để thực hiện việc an
bang tế thế, họ thường tìm về Phật giáo và Lão Trang để giải thoát và di dưỡng
tính tình.
Ta
cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Hình
ảnh con người ở đây vô cùng đẹp đẽ, uy nghi, dám sánh ngang cùng Trời Đất. Triết
lí nhân bản thể hiện quá rõ ràng, con người mạnh mẽ cùng trời đất chứ đâu có yếu
mềm để rồi phải nép mình quỳ luỵ dưới thế lực của Trời (tôn giáo thần quyền) và
Đất (thế lực của vật chất).
Tuy
vậy, con người chúng ta phần đông quả là thiếu sự tự tin, người theo tôn giáo
thần quyền thì cúi mọp dưới chân đấng vô hình nào đó, kẻ không theo tôn giáo
thì tôn thờ thế lực của tiền bạc, danh vọng. Chúng ta không còn tin vào chính
mình nữa mà chỉ tìm lấy những giá trị hư ảo bên ngoài để tô vẽ và nâng cao vị
trí mình trong xã hội. Tự thân con Người đã có một giá trị đích thực rồi, không
cần phải quy chiếu vào bất cứ thứ gì để tạo thêm giá trị ngoài cái Ta nữa. Cái
Ta này không phải là cái tôi nhỏ bé, phàm tục mà phần đông con người thưòng lệ
thuộc vào nó. Trái lại, cái Ta này hiên ngang, lẫm liệt, nó đã vượt lên trên tất
cả những nhỏ nhoi, phù phiếm của thế cuộc mà tan hoà vào cõi đạo, huyền vi, lồng
lộng, thênh thang.
Trời
Đất in Ta một chữ đồng
Trong
đạo Nho, ngoài phần thế học (Hình nhi hạ), còn có phần tâm học uyên nguyên
(Hình nhi thượng) nữa. Tâm học của Nho gia có nét tương đồng dị biệt với nhà Phật
và Lão Trang. Mạnh Tử, người mở đầu cho trường phái Tâm học đã nói: “萬 物 皆 備 於 我.
反 身 而 成, 樂 莫 大 焉 - Vạn vật giai bị ư ngã. Phản thân
nhi thành, lạc mạc đại yên” (Vạn vật đầy
đủ nơi ta. Trở vào mà thực hiện để tựu thành thì không gì vui hơn) Mạnh Tử.
Lục
Tượng Sơn, người đại diện cho Tâm học đời nhà Tống của Trung Quốc cho rằng:
“宇 宙 便 是 吾 心, 吾 心 便 是 宇 宙 - Vũ trụ tiện thị ngô tâm, ngô tâm
tiện thị vũ trụ” (Trời đất vạn vật tức là tâm ta, tâm ta tức là trời đất vạn vật)
Tượng Sơn toàn tập.
Vương
Dương Minh, một nhân vật trác việt nhất, kiệt xuất nhất của Tâm học đời nhà
Minh cũng từng phát biểu: “夫 人 者 天 地 之 心, 天 地 萬 物 本 吾 一 体 也 - Phù nhân giả thiên địa chi tâm, thiên
địa vạn vật bản ngô nhất thể dã” (Người
là tâm trời đất, trời đất vạn vật vốn cùng một tính chất là vậy ) Truyền Tập Lục.
Dịch
giả bài Vịnh Tam Tài rất đồng cảm với tiên sinh Trần Cao Vân nên đã diễn dịch câu
thơ này thành một câu nói rất mộc mạc và bình dân “Trời Đất in Ta một chữ đồng”. Khẩu ngữ của người dân xứ Quảng thể
hiện đậm nét ở nơi đây, “in” tức là giống y vậy. Ta và Trời Đất có gì khác nhau
về tính chất siêu linh đâu, vì thế có gì phải sợ hãi. Trời Đất còn chưa sợ huống
gì những thế lực thần quyền, thế quyền hay vật chất. Dịch giả của Vịnh Tam Tài đã kiến giải phần thâm sâu
của đạo Nho trong một ngôn ngữ bình dân và dễ hiểu nhất.
Đất
nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta
và Trời Đất cùng xuất khởi một lần, vậy thì đâu ai kém ai. Giữa trời đất bao la,
hình ảnh con người oai phong quá! Con người được đề cập ở đây là bậc triết nhân
quân tử, mang trong mình “khí hạo nhiên” tràn
khắp vũ trụ chứ không phải là thứ tiểu nhân thấp hèn, yếu kém.
Theo
truyền thuyết của Đông phương, khi thánh nhân ra đời thì thiên nhiên có những hiện
tượng kì dị, lạ lùng. Hiện tượng thường gặp nhất: mặt đất thì rung chuyển mạnh,
bầu trời thì sấm chớp vang rền. Ở đây, có lẽ tác giả đã ví mình như một bậc
thánh trí hiện ra để cứu đời trong bước ngoặt đầy khó khăn của lịch sử nước nhà.
Ta
thay Trời mở Đất mênh mông
Hoài
bão và chí hướng của tiên sinh được thể hiện rõ nét trong câu thơ này. Thật ghê
gớm, thánh nhân có thể thay trời để mở đất, để “thế thiên hành đạo - thay trời mà hoằng dương đạo lí”. Bản chất
con người xứ Quảng luôn ngang tàng, gân guốc, thẳng thắn. Người quân tử xứ này được
hàm dưỡng trong lò Khổng Mạnh càng lâu bao nhiêu thì tính cách ấy lại càng mạnh
mẽ bấy nhiêu. Họ đã thực hiện đúng châm ngôn: “冨 貴 不 能 淫, 貧 賤 不 能 栘, 威 憮 不 能 屈, 此 之 謂 大 丈 夫 - Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” (Giàu có không phóng đãng, nghèo hèn không thay đổi ý chí, không khuất
phục trước sức mạnh, đó mới chính là bậc đại trượng phu) Mạnh Tử.
Tính
cách nhà cách mạng, nhà tư tưởng Phan Châu Trinh cũng vậy, cụ không bao giờ biết cúi đầu khuất phục trước bạo lực, cường
quyền. Trong lòng các vị ấy đều đầy ắp chữ nghĩa của thánh nhiền nhưng hành động
thì vô cùng thực tế, các cụ sẵn sàng giũ bỏ danh vọng để đi làm cách mạng. Với
lí tưởng vì dân, vì nước, họ coi chuyện vào tù ra tội hay cái chết nhẹ như lông
hồng. Những vị ấy ít trước ngôn lập thuyết, nhưng chúng ta chỉ cần xem quả là
biết cây. Cây triết lí nhân sinh của họ đã qua được thử thách và vững chãi giữa
phong ba bão tố của cuộc đời.
Trời
che Đất chở ta thong thả
Đã
có trời che đất chở thì vô cùng thong dong tự tại và thảnh thơi, có lo nghĩ gì
nữa đâu. Trời đã che và đất đã chở thì sợ gì mà không thực hiện được đạo “nội
thánh ngoại vương”. Bởi ý thức được địa vị cao cả của mình trong vũ trụ, họ an
nhiên vui sống và ung dung gánh vác việc đời nhưng lòng không xa rời đạo lí: “君 子 坦 蕩 蕩 - Quân tử thản đãng đãng” (Người quân tử thường vui vẻ) Luận Ngữ.
Trời
Đất Ta đây đủ hoá công
Sức
sáng tạo của con người thật vĩ đại, không thua gì trời đất cả. Không có ta thì
Trời Đất chưa đủ là hoá công. Phải có ba bực tài (Thiên Địa Nhơn) thì vũ trụ
này mới hiện hữu. Người xưa đã từng nói về con người: “人 者 其 天 地 之 徳, 陰 陽 之 交, 鬼 神 之 會, 五 行 之 秀 氣 - Nhân giả kì thiên địa chi đức, âm
dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí” (Con người là cái đức của trời đất, chỗ giao nhau của âm dương, nơi gặp
gỡ của quỷ thần, là khí đẹp của ngũ hành) Lễ Kí.
Nếu
đem ra so sánh với con người trong Vịnh Tam
Tài thì cách định nghĩa trên đây của người xưa xem ra vẫn còn thua xa con
người mà Trần Cao Vân đã đề cập đến. Ông đã diễn tả một quan niệm rất đẹp đẽ và
cao cả về con người trong vũ trụ mênh mông. Không một nơi nào trên trái đất địa
vị con người được đề cao như vậy!
Vịnh Tam Tài có thể cho chúng ta thấy được rằng,
Trung Thiên Dịch là một học thuyết có thật nhưng đang còn trong thời kì thai
nghén. Bản thân Trần Cao Vân cũng nói rõ trong câu đối phúng điếu nhà cách mạng
Châu Thượng Văn vào năm 1908:
“Ta có tiếc sống đâu, ngặt vì Trung
Thiên Dịch mới mở đầu, Dũ Lý bảy năm chưa kịp diễn.
Người hẳn theo nghĩa đây nhất kinh muôn đời còn giữ chặt. Thú Dương
nghìn thuở hãy còn nghe. (Huỳnh
Thúc Kháng dịch).
Vịnh Tam Tài tuy chỉ vỏn vẹn 56 chữ, nhưng nó cưu
mang cả một nền triết lí nhân sinh sâu thẳm. Không biết nó có thể là cốt tuỷ của
Trung Thiên Dịch chăng?
Đến
đây, người viết liên tưởng đến Bát Nhã
Tâm Kinh của đạo Phật. Tuy bài kinh chỉ có 260 chữ nhưng là phần tinh yếu
nhất, cốt lõi nhất của bộ Đại Bát Nhã gồm
600 quyển. Theo một tác phẩm chú giải Bát
Nhã Tâm Kinh có tựa đề là Nghĩ Từ
Trái Tim(3) thì các nhà nghiên cứu cho rằng, Bát Nhã Tâm Kinh đang làm “rúng động” cả
Đông phương lẫn Tây phương. Người viết không bao giờ dám đem Vịnh Tam Tài so sánh với Bát Nhã Tâm Kinh mà chỉ gợi ra một ít
suy tưởng. Biết đâu, khi chúng ta đem Vịnh
Tam Tài giới thiệu với thức giả Tây phương, họ cũng sẽ có tâm trạng gần giống
khi tiếp cận với Bát Nhã Tâm Kinh vậy.
Nhà
cách mạng, nhà tư tưởng Trần Cao Vân đã sống trọn vẹn triết lí sống của mình
trong bài thơ Vịnh Tam Tài cho đến
hơi thở cuối cùng (4). Trước kẻ bạo quyền, cái chết đã không làm ông
sợ hãi chút nào; trái lại, ông đã an nhiên tự tại đi vào cõi vĩnh hằng. Trước một
trí tuệ và nhân cách cao cả như vậy, chúng ta chỉ biết cúi đầu khâm phục.
Hồ
Phú Hùng
(1) Quảng Nam Trong Hành Trình Mở Cõi Và Giữ
Nước - Nguyễn Q. Thắng - NXB Tp. Hồ Chí Minh, 2005.
Luận
Tam Tài
Thiên
địa sinh ngô hữu ý vô
Vị
sinh thiên địa nội hàm ngô.
Ngô
thiên địa hiệp tam tài lập,
Thiên
địa ngô đồng nhất tự đồ.
Ngôi
xuất địa thời thiên chuyển động,
Thiên
giao ngô tịch địa bao lô
Địa
thiên tải phúc ngô sinh lạc,
Thiên
địa hóa công ngô hữu hồ!
(2) Bản dịch Vịnh Tam Tài do Hành Sơn - Lương
Vĩnh Thuật thực hiện.
(3) Nghĩ Từ Trái Tim - Bs Đỗ Hồng Ngọc - NXB
Tp. Hồ Chí Minh 2004.
(4) Thân thế và sự nghiệp Trần Cao Vân - Tô
Đình Cơ, Sở Văn hoá Thông tin Bình Định, 1995. (Theo Tô Đình Cơ - cháu ngoại cụ
Trần Cao Vân - bài Vịnh Tam Tài được
ông sáng tác tại nhà ngục Huế để bày tỏ chí khí và quan niệm của mình trong lúc
chờ ngày ra pháp trường).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét