Với tôi, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ duy nhất của dân tộc
Việt dùng âm nhạc để chuyển tải ý nghĩa của Triết học Hiện sinh và
Thiền học Phật giáo. Con đường sáng tác của ông trước năm 1975 có
thể được chia làm ba chặng; chặng đầu là những bản tình ca; chặng
giữa là dòng nhạc phản chiến và tình tự quê hương; chặng cuối là
dòng nhạc nói về thân phận con người, về lẽ tử sinh, sự đối diện
với hư vô, niềm cô đơn tâm linh và nỗi thao thức trở về với chính
mình - hòng tìm gặp con người chân thực của mình.
Thời trai trẻ, tôi từng say mê đàn hát những bản tình ca
của ông; đến mùa thu cuộc đời, tôi lại thích nghe dòng nhạc ông sáng
tác khi đã trải nghiệm về sự tìm kiếm. Có khá nhiều nhạc phẩm
của Trịnh Công Sơn ở giai đoạn cuối mà khi vừa mới nghe lướt qua,
chúng ta cứ ngỡ ông nói đến tình cảm thế nhân; nhưng những ai tinh ý
hoặc có chút am hiểu về Triết học Hiện sinh và Thiền học Phật giáo
sẽ nhận ra cái "ý tại ngôn ngoại" (ý tưởng nằm ở ngoài
lời nói) của ông - bởi ngôn từ của thế gian thì không thể diễn đạt
hết được những cảm nghiệm về triết lí và đạo học. Với tôi, âm nhạc Trịnh Công Sơn không những nâng cao tâm thức và thăng hoa tâm hồn của người nghe mà còn có khả năng trị liệu những nỗi đau khổ triền miên. Nói theo ngôn ngữ của nhà Phật, ông chính là một Bồ Tát Nghệ Sĩ (Bodhisattva-Artiste).
Tuy đã bỏ nghe nhạc và hát nhạc từ lâu nhưng thỉnh
thoảng vào những đêm khuya, tôi vẫn trở về với những ca khúc của
nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly để được an nhiên tự tại
sau những cơn giông bão của đời mình như: Một Cõi Đi Về, Đóa Hoa Vô Thường, Phôi Pha, Hành Hương Trên Đồi Cao,
Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ, Lời Thiên Thu Gọi, Chiếc Lá Thu Phai, Tôi Đang
Lắng Nghe, Chìm Dưới Cơn Mưa…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét