Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2015

TẠ ƠN NGƯỜI

Giữa năm 1998, một người quen cho tôi mượn tập sách mỏng photocopy có tựa đề Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo của Phạm Công Thiện. Tôi đọc xong liền đem trả ngay và nói với họ rằng, đây là một cuốn sách giả mạo, cuốn sách này do người khác viết ra và đề tên Phạm Công Thiện. Vì sao tôi lại khẳng định như vậy? Năm ba mươi hai tuổi, tôi “bắt gặp” Phạm Công Thiện. Đối với tôi, ông có một sức hút đầy ma lực; từ chỗ yêu mến và say mê, tôi tìm đọc gần hết các tác phẩm của ông được xuất bản trước năm 1975. Do ăn nằm với ông khá lâu nên tôi quá quen thuộc văn phong và tính cách của ông. Nhận thấy trong Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo không thể hiện rõ cá tính của ông nên tôi không suy nghĩ mà phán liền như thế. Đây chính là một sự sai lầm chủ quan.

Vì quá tin vào sự hiểu biết của mình nên tôi mới mắc bệnh chủ quan. Tại sao tôi quá tin vào sự hiểu biết của mình? Số là như thế này. Do trở ngại về chuyện xe cộ trong một chuyến đi ra miền Trung vào năm 1997, thầy Tuệ Sỹ có ghé lại chùa Hòa An, Tam Kỳ để nghỉ lại một đêm. Được tin ấy, người bạn vong niên của tôi - người trước đây từng là tì kheo, về sau hoàn tục - đến nhà tôi và hỏi rằng tôi có muốn gặp thầy Tuệ Sỹ không. Trong thời gian ấy, thầy Tuệ Sỹ vẫn còn là người mà nhà nước không có thiện cảm. Tuy rất ngại chuyện rắc rối với chính quyền sau khi gặp thầy, nhưng do nhu cầu giải tỏa những thắc mắc về học thuật nên tôi đánh liều đến chùa để gặp thầy. Trước năm 1975, thầy Tuệ Sỹ từng giảng dạy tại Viện Đại Học Vạn Hạnh, Sài Gòn (Viện ĐH Vạn Hạnh là nơi tập trung những giáo sư lỗi lạc về Phật học, về Khoa học Xã hội và Nhân văn của miền Nam), thầy từng làm Thư ký tòa soạn Tạp chí Tư Tưởng - cơ quan luận thuyết của Viện ĐH Vạn Hạnh. Vì thế, thầy hiểu rất rõ nền học thuật tại đây.

Qua vài câu xã giao, tôi đi thẳng vào hai vấn đề mà tôi không biết hỏi ai. Câu hỏi thứ nhất: Thưa thầy! Theo con, cuốn sách Trước Sự Nô Lệ Của Con Người tuy là đứng tên Hòa Thượng Thích Minh Châu nhưng do ông Phạm Công Thiện viết. Bởi vì cách hành văn và kiến thức trong cuốn sách hoàn toàn là của ông Phạm Công Thiện (đã được Phạm Công Thiện tỉa bớt sự góc cạnh và cách phát biểu hùng hồn). Không biết nhận định của con có đúng như vậy không? Thầy Tuệ Sỹ đã chấp nhận là tôi nói đúng, cuốn sách đó là do Phạm Công Thiện viết ra. Câu hỏi thứ hai: Thưa thầy! Sau khi Phạm Công Thiện sang Pháp, tạp chí Tư Tưởng không còn được như xưa, bài vở có chiều đi xuống, không hiểu vì nguyên nhân gì mà có chuyện như vậy? Thầy Tuệ Sỹ trả lời rằng, sau khi ông Phạm Công Thiện sang Pháp thầy thay thế ông ấy làm chủ bút tạp chí Tư Tưởng, kiến thức của thầy không bằng kiến thức của ông Phạm Công Thiện nên tạp chí Tư Tưởng không còn khởi sắc như xưa. Sau khi nghe thầy trả lời câu hỏi thứ hai, tôi thấy mình hơi thiếu tế nhị và xin lỗi thầy vì không biết là thầy phụ trách tạp chí Tư Tưởng trong gia đoạn đó nên mới đặt câu hỏi. Thầy bảo là không sao đâu! Đức độ của người tu hành thật có khác, thầy Tuệ Sỹ là một thiên tài của Phật giáo Việt Nam, được người người ngợi ca - kể cả thi sĩ Bùi Giáng - vậy mà thầy vô cùng khiêm tốn, nhận điều dở về mình và nhường điều hay cho người khác.

Câu chuyện kể trên là sự thực hoàn toàn, trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay không ai dám bịa đặt một câu chuyện động trời như thế. Một kẻ vô danh tiểu tốt như tôi không đủ sức hạ giá trị học thuật của những bậc chân tu như thầy Minh Châu (Viện trưởng Viện Đại học trước năm 1975 và Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học sau năm 1975) và thầy Tuệ Sỹ. Hai vị là người tu hành nên chuyên về nội điển (Phật học), vì thế không thể bao quát hết phần ngoại điển (thế học) như ông Phạm Công Thiện là lẽ dĩ nhiên. Cuốn sách Trước Sự Nô Lệ Của Con Người là Bản Thệ của Viện ĐH Vạn Hạnh nên dù do bất kì người nào chấp bút, thầy viện trưởng đã đứng tên vẫn là điều đúng đắn.

Mục đích của câu chuyện này cho biết, tôi là thế hệ trưởng thành sau năm 1975 nhưng đã hiểu Phạm Công Thiện đến từng chân tơ kẽ tóc. Cũng do suy nghĩ như vậy nên tôi đã mắc phải sai lầm trong việc cho rằng cuốn sách Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo không phải là của Phạm Công Thiện. Thực ra, qua sách vở, tôi mới chỉ biết về Phạm Công Thiện thời còn ở Việt Nam và thời còn làm Khoa trưởng Văn Khoa và Khoa Học Nhân Văn của Viện ĐH Vạn Hạnh. Tôi chưa biết hành trình tư tưởng của ông sau khi sang Pháp, chưa hiểu rõ về một Phạm Công Thiện khác. Vài năm sau đó, khi đọc được cuốn Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng của ông, tôi mới hiểu rõ là bắt đầu vào năm 1983, ông đã hoàn toàn chuyển hóa tâm thức. Đây chính là bước khởi đầu cho chặng đường cuối cùng trong cuộc hành trình phiêu lưu vào những dòng tư tưởng của ông. Sự chuyển hóa của Phạm Công Thiện manh nha từ Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng, càng về sau thì càng triệt để hơn. Những lời lẽ trong những cuốn sách được ông xuất bản nối tiếp Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng thật nhẹ nhàng và khiêm tốn, nó không phải là thứ ngôn từ đầy kiêu ngạo như trước đây.

Sau khi thi sĩ Bùi Giáng qua đời, giới văn nghệ và tu sĩ Phật giáo đã viết bài về ông, những bài viết chọn lọc được đưa vào tập Tưởng Niệm Thi Sĩ Bùi Giáng. Tập sách mỏng này được in thủ công và lưu hành nội bộ. Qua bài viết của Thích Nhuận Châu, tôi mới biết năm 1998, Phạm Công Thiện đã cho xuất bản tại Mỹ hai tập sách mỏng có tựa đề là Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo và Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương. Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo là cuốn sách mà cách đây mấy tháng, tôi đã cả gan phủ nhận là không phải của Phạm Công Thiện.

Sau gần hai năm lao tâm khổ tứ tìm kiếm, đầu năm 2000, Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo và Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương được in thủ công (in bằng bản lụa) mới đến tay tôi. Từ đó đến nay, thỉnh thoảng tôi vẫn mở cuốn Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo ra để đọc; còn cuốn Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương thì tôi không dám đụng đến - sau khi đã đọc qua vài lần. Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương được dành cho những vị muốn theo hạnh nguyện của những bậc Bồ tát, phàm phu tục tử như tôi thì đành “kính nhi viễn chi” thôi. Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo là cuốn sách chỉ 114 trang nhưng đáng kinh ngạc, bởi nó có thể làm thay đổi vận mệnh của một con người. Quyển sách này và quyển sách Những Bước Chân Nhẹ Nhàng Trở Về Sự Im Lặng đã xô đẩy tôi vào thế giới thần bí, mênh mông của Phật giáo Mật tông Tây Tạng. Nhờ đó mà tôi hiểu rõ về cái chết, về thế giới bên kia cửa tử và sự tái sinh để tôi có thể đối diện với cái chết một cách bình thản và không sợ hãi. Chết, sau khi chết và tái sinh cũng là một lĩnh vực đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều giáo sư tâm lí học tại Đại học Virginia, Hoa Kỳ.

Thời gian gần đây, khi đã sưu tập gần như đầy đủ kinh điển của Phật giáo, tôi bắt đầu đọc lại kinh Phật một cách căn bản và có hệ thống hơn xưa. Trong lúc đọc kinh Phật, thỉnh thoảng, tôi tham khảo ý kiến cũng như kinh nghiệm của những học giả và hành giả có uy tín. Tối nay, khi đọc lại đoạn sau trong chương Những Điều Kiện Cần Thiết Khi Đọc Tụng Kinh Phật trong Cuốn Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương, tôi vui sướng đến điên người.

“Ngôn ngữ của chư Phật và chư Bồ Tát là ngôn ngữ tự xóa mất trong từng chữ và từng tiếng để bất ngờ khai mở một thế giới vô tận và mới lạ, và chỉ khi nào cái bản ngã hạn hẹp của mình bị nghiền nát thành tro bụi thì may ra lúc ấy mới bừng sáng lên tất cả chân thực nghĩa vô lượng của Như Lai.

Mình phải đọc tụng kinh Phật với tất cả tinh thần khẩn trương của một kẻ bị xử tử hình đang quì cúi lạy trong xà lim tối đen, đang lắng nghe sự im lặng trườn mình qua nỗi chết sắp đến...

Mình cũng có thể đọc tụng kinh Phật như người đã bị tước đoạt mất hết tất cả trong đời sống, và bỗng nhiên bất thần lại được tìm thấy một kho tàng trân bảo vô lượng trước mắt mình; niềm vui sướng vô tận, cơn khoái lạc tràn trề tràn ngập cả thể xác lẫn tinh thần mà trọn cả đời người chưa bao giờ có được cảm thức phi thường như vậy.”

Những dòng chữ trên đã khiến tôi nghĩ ngợi, dù có vẻ điên rồ nhưng mình phải theo con đường này cho đến hơi thở cuối cùng, dẫu nghèo khó và cô đơn có thể rình rập.

Sau khi Phạm Công Thiện qua đời vào năm 2011, đã có quá nhiều người viết bài ca ngợi và xưng tụng ông. Ở đây tôi không làm chuyện trùng lặp này, tôi chỉ muốn nói rằng, nhờ ông nên tôi hiểu về Triết học Tây Phương, về Thiền Tông, về Mật Tông Tây Tạng và gần đây nhất là Tịnh Độ Tông - một pháp môn Niệm Phật mà trước đây tôi từng coi thường. Tôi luôn luôn xem ông là bậc thầy, là bậc thiện tri thức, là người đã mở đôi mắt mù lòa, đã gột đi từng lớp vô minh và ngu dốt của tôi. Với ông, tôi là kẻ thọ ơn! Bài viết này được viết ra để tạ ơn ông - một trong những người đã dẫn dắt tôi vào thế giới mênh mông bất tận của Phật Đạo.

Tam Kỳ, 12 giờ đêm ngày 23/05/2015


Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

ĐÔI DÒNG VỀ PHẬT QUANG ĐẠI TỪ ĐIỂN

Vượt lên những nỗi khổ đau của thế giới điêu linh, vút cao giữa đổ nát hoang tàn của những thành quách cũ, lướt qua bao lớp sóng phế hưng của vô số triều đại, từ đỉnh cao giác ngộ Đức Phật nhìn xuống dòng đời mênh mang, nở nụ cười từ bi và cứu độ chúng sinh thoát khỏi nhất thiết khổ ách. Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua, cho đến tận bây giờ và mãi mãi về sau - nếu loài người còn có mặt trên trái đất - những pháp bảo của Ngài vẫn là phước báu đối với những ai muốn vượt lên cái nhất thời và tìm đến sự Vĩnh Cửu.
Qua nhiều năm khép lại những bộ kinh Phật để lo toan những công việc đời thường, gần đây chàng đã cúi đầu, từ tốn và nhẹ nhàng giở lại từng trang kinh Phật. Khi còn trai trẻ, chàng đã đọc giáo pháp của Đức Phật một cách vội vã, đọc nhưng tâm trí còn nghĩ đến chuyện khác, và bởi bao hệ lụy vây quanh nên tuy cũng hiểu được kinh điển nhưng chàng chưa thực hành nhiều lắm. Ngày xưa, lúc mới đọc được năm, sáu chục cuốn sách về Phật giáo, về Thiền Tông, Mật Tông Tây Tạng và vài bộ kinh Phật, dẫu không nói ra nhưng chàng luôn tự cho mình là hiểu sâu đạo Phật. Đó chính là sự kiêu ngạo, kiêu ngạo một cách ngu muội! Mới đây, khi sưu tập gần như đầy đủ những bộ kinh quan trọng của Phật giáo (khoảng tám mươi pho kinh điển đạo Phật, tương đương bốn mươi ngàn trang giấy chi chít chữ), chàng đã biết khiêm tốn hơn. Hôm nay, chàng bắt đầu bò trên từng trang kinh và trườn tới như đứa trẻ mới biết bò biết lẫy. Chàng là đứa con nít đang bò, dần dần tập đi, tập chạy, tập bơi và sẽ vùng vẫy trong cái biển cả mênh mông những pháp thoại ấy. Đọc kinh Phật là đọc chính mình, là gột đi từng lớp si mê ám chướng, là lọc sạch vọng tưởng điên đảo, là soi sáng những hố thẳm âm u trong tâm thức, là chuyển hóa tâm hồn, là trải rộng lòng yêu thương... và tìm thấy niềm an lạc vô biên. Niềm an lạc siêu tuyệt mà nếu đem tất cả khoái lạc của thế gian cộng lại cũng không thể nào sánh nổi.
Trở ngại lớn lao đầu tiên khi đọc thẳng vào kinh điển mà không qua bất cứ luận giải nào của các học giả hoặc hành giả Phật giáo là vấn đề ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong kinh điển Phật giáo phần lớn được dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán, rồi từ chữ Hán sang tiếng Việt. Cách sử dụng ngôn ngữ trong kinh điển cũng không thống nhất, cùng một từ tiếng Phạn mà người dịch của Trung Hoa thời trước mỗi người dịch mỗi khác, cũng cùng một từ tiếng Hán mà dịch giả của Việt Nam dịch ra tiếng Việt mỗi khác. Dù đã dịch ra tiếng Việt nhưng ngôn ngữ trong kinh điển rất cổ kính và hàm súc. Nếu nghiền ngẫm kinh điển mà không có từ điển Phật học để tra cứu thì phải đành bỏ cuộc. Do chiến tranh loạn lạc, do xáo trộn của thời cuộc, mãi cho đến năm 1975 nước Việt chỉ có một bộ từ điển Phật học duy nhất của cư sĩ Đoàn Trung Còn. Từ sau 1975 đến nay, rải rác có xuất bản thêm vài bộ từ điển nữa nhưng từ ngữ cũng còn nghèo nàn và thiếu sót, bởi đó là những công trình của cá nhân hoặc của một nhóm chỉ vài ba người. Ngày hôm nay, Phật Quang Đại Từ Điển đã giải quyết được vấn đề khó khăn ấy.
Tăng ni sinh và người nghiên cứu Phật học ở Việt Nam luôn chờ mong bộ từ điển đồ sộ và công phu có tên là Phật Quang Đại Từ Điển được dịch ta tiếng Việt. Phật Quang Đại Từ Điển là bộ từ điển Phật học đầy đủ nhất từ trước cho đến nay trên thế giới. Bộ đại từ điển này đã được năm mươi học giả Đài Loan bỏ công biên soạn từ năm 1978 đến năm 1988, đúng y mười năm trời. Bộ đại từ điển đã được Hòa thượng Thích Quảng Độ - một tên tuổi lớn của Phật giáo Việt Nam - dịch trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thầy bắt đầu dịch vào năm 1990 và hoàn thành vào năm 1997. Vì nhiều lí do tế nhị, bộ đại từ điển này không được xuất bản trong nước nhưng lại được xuất bản tại Đài Loan năm 2000 và tại Pháp năm 2012. Thật hi hữu, vào cuối năm 2014 Phật Quang Đại Từ Điển bản tiếng Việt được cho phép ấn hành tại Việt Nam. Phật Quang Đại Từ Điển gồm 8 cuốn, gần 10.000 trang với 22.608 từ và bảy triệu chữ giải thích các từ.
Cách đây vài ngày, chàng đã sở hữu báu vật vô giá này và đã đặt nó vào vị trí trang trọng nhất trong nhà. Chưa kể đến sự thu hút của nội dung phong nhiêu và giàu có, về mặt hình thức đây là một ấn bản hoàn hảo. Là một người chơi sách - chỉ chơi một cách tài tử - chàng công nhận nó tuyệt đẹp. Phật Quang Đại Từ Điển đẹp từ bìa sách, từ loại giấy chuyên dụng chỉ dành cho từ điển được nhập của Hà Lan, cho đến độ sắc sảo của từng con chữ bé xíu. Chàng mân mê, vuốt ve, ngắm nghía nó hoài không chán! Biết rằng nó cũng vô thường như bao sự vật khác, sẽ hư hoại và tan biến theo thời gian nhưng những phiên bản như nó sẽ trường tồn mãi mãi.


Dưới đây là trích đoạn trong bài giới thiệu về bản dịch Phật Quang Đại Từ Điển của thi sĩ Thi Vũ - người chịu trách nhiệm xuất bản Phật Quang Đại Từ Điển tại Paris năm 2012.
"Vừa thoát ách Pháp thuộc, liền bị rơi ngay vào chiến tranh rồi tranh chấp đến nay, dồn dập suốt 67 năm ròng. Nước ta chưa hình thành Hàn lâm viện để định chế ngữ văn trên bước tiến hóa của nhân loại, và sự đổi thay chuyển biến mỗi ngày trong cộng đồng dân tộc. Long đong theo những loạn động của thời thế, văn hóa và ngữ học mắc phải hệ lụy chưa biết ngày nào thoát thân.
.....
Phải đọc công trình dịch thuật Phật Quang Đại Từ điển mới thấy học thuật Hòa thượng thâm viễn, ngôn ngữ phong phú, sáng tạo, và thù ứng với các từ Hán, Phạn tương đương. Tinh thông, nhuần nhuyễn, thanh thoát qua từng câu văn. Không còn là một tác phẩm dịch thuật, mà là tác phẩm văn chương trong lĩnh vực triết học và tư tưởng Phật giáo qua ngôn ngữ Việt. Vừa tường giải, vừa đối chiếu, mỗi từ mục là một bài thâm nhập giáo lý siêu thoát nhưng thực chứng của đạo Phật.
.........
Người ở xa nước, không được gần gũi chư Tăng Ni, Thiện tri thức thông hiểu giáo lý, có bộ Phật Quang Đại Từ điển trong tay sẽ như được sống bên vị Thầy cao cả về đường Phật lý. Và điều chắc chắn, sẽ không bao giờ bị xa lìa với chân ngữ của đạo Phật, hay bị suy diễn đạo Giác ngộ thành loạn tưởng của tà giáo vào thời Mạt pháp hôm nay.
Tiền đồ Phật học Việt Nam có phát huy, tiến bộ chăng, phần lớn sẽ nhờ vào bộ Phật Quang Đại Từ điển bản dịch Việt văn của Hòa thượng Thích Quảng Độ. Và cũng sẽ là tiền đề cho sự rộ nở của triết học, của tư tưởng Việt Nam còn sơ khai hôm nay. Nhớ lại hồi thế kỷ VII Tây lịch, thánh tăng Huyền Trang bỏ 15 năm trường, xuyên sa mạc Gobi hoang vắng, hiểm nghèo, sang Ấn độ thỉnh Kinh Phật. Về nước ngài phiên dịch ra Hán văn dưới thời Đường. Tiếp sau những dịch phẩm của ngài Kumârajîva (Cưu ma la thập) đời Đông Tấn thế kỷ V, các bản dịch của ngài Huyền Trang với óc sáng tạo dồi dào, chữ nghĩa độc đáo, thâm huyền, làm rộ nở, phong phú, đổi mới văn học, ngôn ngữ và tư tưởng Trung quốc.
Sẽ lợi ích biết bao cho hàng chục nghìn Tăng, Ni, hàng triệu người học Phật trong nước, nếu Phật Quang Đại Từ điển được xuất bản tại Việt Nam. Thế nhưng nhà đương quyền đặt điều kiện muốn in phải xóa bỏ tên dịch giả, Thích Quảng Độ. Vì vậy, năm 2000, Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh thuộc Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc cho xuất bản lần đầu tại Đài Loan. Nay đã tuyệt bản. Do nhu cầu học hỏi của Phật tử Việt Nam trên năm châu đòi hỏi, và được Hòa thượng Thích Quảng Độ ủy quyền, tôi hân hoan thúc đẩy Nhà xuất bản Quê Mẹ ở Paris ấn hành Phật Quang Đại Từ điển vào mùa thu năm nay, 2012, gồm 6 tập, dày 7374 trang."


Paris, ngày 7.6.2012
Thi Vũ