LỜI DẪN
Tối qua, tôi nằm đọc lại “Ta Là Cái Đó”
(I Am That) của vị thánh Nisargadatta Maharaj trong đất nước Ấn Độ
cổ xưa. Cuốn sách được biên tập và dịch ra Anh ngữ từ các cuốn băng
ghi âm những đối thoại theo phong cách Socratic của bậc đạo sư này với
người tìm kiếm chân lí trên khắp thế giới.
Trong khi gấp sách để nghiền ngẫm những
trực chỉ về Thực Tại Tối Thượng của Nisargadatta Maharaj, tôi thường
nhìn lên trần nhà hoặc vách nhà. Khi
hôm, bất chợt tôi nhìn thấy một
con thằn lằn đang rình và đớp mồi; hình ảnh này làm tôi ngừng suy tư
và liên tưởng đến truyện ngắn “Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp” của Hồ Hữu
Tường sáng tác vào năm 1953. So với “Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp” thì
con thằn lằn này có vẻ quá “hung hãn” – mà có lẽ những con thằn
lằn khác cũng phải hành động như thế để mưu sinh và tồn tại. “Con
Thằn Lằn Chọn Nghiệp” được sống trong am và nghe kinh Phật từ những
lời tụng của một vị sư già nên nó có được “linh giác”, còn con thằn
lằn trong nhà tôi thì sống chung với người trần tục và không được nghe
tụng kinh nên có nhiều ám chướng cũng là chuyện đương nhiên - bởi tôi
chỉ đọc kinh Phật chứ không biết tụng thành tiếng.
Theo tôi, “Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp”
là một truyện ngắn đặc sắc và ý nghĩa nhất mà tôi đã từng đọc.
Tôi là người không bao giờ coi trọng thứ văn chương không có đạo
tâm, không mang màu sắc triết lí và đạo học, nhưng đối với loại văn
chương dẫn dắt con người về với Suối Nguồn của chính mình, về với
Hiện Hữu và Thực Tại thì tôi luôn luôn trân quý. Sáng nay, bỗng nhiên
tôi có cảm hứng muốn chia sẻ cùng người thân và và bạn bè nghệ
phẩm đích thực này.
Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u,
không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non
ba năm thôi. Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm
chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa
lớn, vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng
khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.
Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được
một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:
- Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới
dõi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên
đường.
Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:
- Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho
người lỡ bước.
Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui
đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:
- Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được
một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé
nghỉ chân. Âu cũng là duyên trước….
Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và
câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:
- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh
nào?
Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:
- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có
thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra… Và từ ấy,
tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.
Một người khách hỏi:
- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao
chăng?
- Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi
sao dám tiếc lời? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các
kinh sách,thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngàn năm trăm năm về
sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần mà
cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay cũng đã gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di
Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ
một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.
Người khách thứ hai hỏi:
- Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?
- Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây
giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có
duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy…
Đến đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt mỏi, xin
ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật,
khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện
vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ
dài đăng đẳng…
Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao
đổi vài câu:
- Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất
sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về
trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ
ắt phải lo tài bồi, phát triển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ;
rồi sanh ra môn ra phái. Ấy là nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền đã hơn
tám mươi bốn ngàn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.
- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm
rằng: Nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất
nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm
nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước
cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải
là phụ lòng mong của Thích Ca chăng?
Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ,
không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am
vừa mới dựng lên, và đã từng nghe chín trăm chín mươi chín lần kinh, nên có
linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của
hai người khách đã giúp chocon thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của
nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự
thiêu… Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu
thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho
người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay?
Rồi con thằn lằn quyết định: Phải ngăn ngừa, đừng
để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: Ấy là bò lên bàn
Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư
không thấy chữ mà tụng nữa.
Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt
được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn: bộ kinh chỉ tụng được quá
nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ: hai người khách là kẻ phàm
tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình. Âu là xếp kinh,
nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.
Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh
chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng
ban ngày, nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh
mịch, nên không dám đổi.
Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng
kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con
thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng:
- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho
ta được đắc đạo!
Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn
lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng
xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.
Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến
trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:
- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng
hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục
vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo,
để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là Tham ; bởi
tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con
thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si. Có đủ Tham Sân Si tất
phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời, cũng chưa bù được.
Tội ngươi lớn lắm, phải rán tu luyện thật nhiều
mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do
xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một
hột tro đó sẽ biến sanh thành một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám
chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở hiệp lại thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây
mà thành chánh quả. Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:
- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng
giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội
đáng kể là mười.
Con thằn lằn lạy mà thưa rằng:
- Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà
sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?
Phật phán:
- Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi
ngăn đón việc tụng kinh của người? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một
việc mê tín, nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là
cõi tự tại. Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao
cho được. Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả
hai làm sao được vào cõi tự tại?
Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà
xin tội:
- Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh
một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột
tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.
Phật đáp:
- Ta cho ngươi được toại nguyện.
Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu
thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:
- Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp
chi?
Phật đáp:
- Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn
hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự
tại.
Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không
biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể
độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật
chưa hề có lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế…
Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy
bóng của một trong hai người khách đã đến am thuở nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã
làm duyên cho mình mấy năm đau khổ.
Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm
đau đớn:
- Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có
hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi
đến bờ bến.
Hai ông khách đáp:
- Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy
người, huống chi lại dám đèo bồng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan
giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như
bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc
lỗi.
Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người
khách nói:
- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh
năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự
vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình. Nếu
phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì
tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người…
Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện
trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:
- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài
tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được
truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng
sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể
cảm hoá triệu triệu người… Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có
thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn
của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên…
Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói
rằng:
- Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc
chắn là đi cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật tổ. Vậy tôi xin
cố gắng.
(Ảo Tượng - Tập truyện ngắn nhiều tác giả - NXB Lá Bối, Sài
Gòn 1965)
LỜI BẠT
Hồ Hữu Tường là học giả, nhà văn, nhà
báo và nhà chính trị độc lập nổi tiếng của miền Nam trước đây. Tôi
chỉ quan tâm đến những giá trị vĩnh cửu như đạo học và triết lí nên
không mấy quan tâm đến vấn đề chính trị, vì thế tôi không phán xét –
và cũng không có quyền để phán xét - chuyện đúng sai của ông ở đây.
Công việc này dành cho những sử gia chân chính trong một không gian và
thời gian khác.
Số phận “Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp” là
số phận của những ai muốn chống lại tham, sân, si và đứng ra cản
đường ám chướng u mê của con người. Phải chăng “Con Thằn Lằn Chọn
Nghiệp” là điềm báo về số phận của chính tác giả? Qua cơn biến
động phũ phàng của thời đại, sự nghiệp văn chương và văn hóa của ông
thì thành công, còn sự nghiệp chính trị thì xem như hoàn toàn thất
bại. Là hàng hậu bối, tôi nguyện cầu cho “hậu thân” của ông không đi
vào con đường chính trị mà mãi mãi đi theo con đường văn hóa.